image banner
  
SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẢNG BỘ XÃ THANH HƯƠNG - HUYỆN THANH CHƯƠNG - TỈNH NGHỆ AN
Lượt xem: 489

LỜI NÓI ĐẦU

Vùng đất xã Thanh Hương xưa bao gồm các làng Hòa Quân, Thanh Khiết, Đồng Hòa và Đồng Du thuộc tổng Võ Liệt. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, các làng này sáp nhập với xã Thanh La thành xã Đồng Thanh. Đến ngày 20/4/1954, xã Đồng Thanh tách thành xã Thanh Hương và Thanh Lĩnh. Thanh Hương là địa phương có bề dày truyền thống dũng cảm, kiên cường trong đấu tranh phòng chống thiên tai, địch hoạ; nhân dân cần cù, chịu thương, chịu khó trong lao động, sản xuất. Trong quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển quê hương, với tinh thần tự lực, tự cường, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, nhân dân toàn xã đã nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, biến vùng đất hoang sơ thành những xóm làng đông đúc và trù phú. Từ khi Đảng ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chi bộ, Đảng bộ và Nhân dân xã Thanh Hương đã đóng góp một phần xứng đáng về sức người, sức của cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần cùng cả nước làm nên những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh chống giặc ngoại xâm, giành độc lập dân tộc, cũng như trong sự nghiệp đổi mới đất nước.

Để ghi lại những trang sử hào hùng của mảnh đất, con người xã Thanh Hương và thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 18/01/2018 của Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa XII) về tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng; thể theo nguyện vọng của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân xã nhà, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Thanh Hương đã ban hành quyết định thành lập Ban chỉ đạo, Ban sưu tầm để nghiên cứu, biên soạn cuốn Lịch sử Đảng bộ xã Thanh Hương giai đoạn 1954-2024.

  

I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ ĐỊA LÝ HÀNH CHÍNH

1. Điều kiện tự nhiên

Xã Thanh Hương nằm ở tọa độ 18 độ 44 phút 14 giây vĩ độ Bắc và 105 độ 12 phút 52 giây kinh độ Đông, thuộc phía Tây huyện Thanh Chương. Phía Bắc giáp xã Thanh Tiên và xã Thanh Liên; phía Đông giáp xã Thanh Lĩnh; phía Nam giáp xã Thanh Thịnh; phía Tây giáp xã Thanh Mỹ và xã Ngọc Lâm.

Địa hình Thanh Hương thấp dần theo hướng Tây Bắc sang Đông Nam. Bao quanh là các dãy núi (tiếng địa phương gọi là rú) cao, làm thành địa giới với các xã liền kề. Rú Lôông nối liền với dãy Hòn Nu nằm phía Đông và Đông Bắc tạo nên ranh giới hành chính với xã Thanh Lĩnh và xã Thanh Tiên. Dãy Hòn Nu chạy dài bao lấy phía Bắc nối với Tháp Bút - Đại Can và dãy Trường Sơn tạo nên ranh giới với xã Thanh Tiên, Thanh Liên ở phía Bắc, Thanh Mỹ ở phía Tây Bắc. Án ngữ phía Tây Nam là Hòn Nhôn, một ngọn núi cao tạo nên ranh giới phía Nam với xã Thanh Thịnh. Ngoài ra, trong xã còn có các đồi núi nhấp nhô như núi Sừng Bò, dãy Đồi Trúc - hố Cơn Trám, núi Eo Tréo - Cây Táu - Động Ong…

Dựa lưng vào dãy Trường Sơn, nên xã Thanh Hương có nhiều sông (tiếng địa phương gọi là rào), suối. Trong đó có ba hệ thống rào lớn đó là Rào Lang, Rào Cái, rào Mạn Tác,... Rào Lang, Rào Cái và rào Mạn Tác hợp lại thành sông Trai ở xóm 6, là con sông lớn nhất chảy qua địa bàn xã Thanh Hương. Ngoài ra, còn có khe Mõ khởi nguồn từ dãy Trường Sơn chảy theo hướng Tây Nam - Đông Bắc. Sông Trai và Khe Mõ sau khi chảy qua địa phận xã Thanh Hương, hợp lưu ở Ba Bến, nơi giáp ranh ba xã là Thanh Hương, Thanh Lĩnh và Thanh Thịnh, sau đó chảy về phía Đông đổ ra dòng sông Cả (sông Lam). Bên cạnh sông Trai và Khe Mõ, Thanh Hương còn rất nhiều khe suối nhỏ, đập nước, hồ, ao khác cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất. Sông Trai phía Bắc, Khe Mõ phía Nam tuy đều nhỏ bé nhưng bồi đắp tạo thành các lưu vực màu mỡ tốt tươi như khu vực Đồng Ngoài,  Ruộng Trai, Ruộng Sắn…

Về đất đai, theo số liệu thống kê năm 2005, xã Thanh Hương có tổng diện tích tự nhiên là 8.518,89 ha, trong đó đất nông nghiệp là 7.846,92 ha, đất phi nông nghiệp là 569,15 ha, đất chưa sử dụng là 102,82 ha. Năm 2009, Nhà nước đã cắt một phần đất của xã Thanh Hương để thành lập xã Ngọc Lâm. Năm 2020, tổng diện tích của xã Thanh Hương là 3.261,96 ha, trong đó đất rừng chiếm 90%, 10% còn lại là đất sản xuất nông nghiệp và sông ngòi, khe suối. Thổ nhưỡng xã Thanh Hương chủ yếu là đất phe-ra-lit đỏ vàng chiếm 90% diện tích tự nhiên, đất phù sa chiếm 5%, còn lại là diện tích mặt nước ao, hồ, sông, suối.

Khoáng sản của Thanh Hương không nhiều, ngoài mỏ than có trữ lượng ít ở núi Sừng Bò và một ít tài nguyên cát sỏi, đá cuội ở các dòng sông thì trong lòng đất chưa phát hiện thấy một loại khoáng sản nào đáng kể.

Thanh Hương nằm trong vùng tiểu khí hậu Bắc Trung Bộ, chịu sự chi phối sâu sắc của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Ngoài mùa Đông và mùa Xuân với nét đặc trưng là mưa phùn, gió mùa Đông Bắc nhiệt độ thấp. Còn mùa Hạ và Thu có nắng nóng, mưa lớn, đáng kể nhất là mùa hè kéo dài từ tháng 6 đến tháng 8 nắng nóng, kèm theo gió phơn Tây Nam thổi mạnh gây hạn hán, ảnh hưởng lớn tới đời sống và sản xuất của người dân.

Từ năm 1960 về trước, hệ thống đường giao thông ở Thanh Hương gặp rất nhiều khó khăn. Giao thông chủ yếu là đường bộ và đường sông. Đường sông chủ yếu đi trên sông Trai nhưng đến những năm cuối thế kỷ 20 không thể hoạt động vì nhiều quãng sông bị cạn. Đường bộ chủ yếu là những con đường mòn nhỏ hẹp với những chiếc cầu tre, gỗ đủ cho từng người gồng gánh đi qua. Mùa hè đường bộ khô cứng, mùa mưa gió thì lầy lội. Những ngày mưa to, nước lũ chia cắt, cô lập các cụm dân cư, thậm chí chia cắt từng hộ gia đình. Tuyến đường lớn nhất ngày đó là từ Hòa Quân, qua Sừng Bò, cầu Động Hẩm nối qua Eo Tréo lên Đồng Hòa dọc sông Trai. Cầu Động Hẩm là một cây gỗ lim bắc qua khe Động Hẩm với hai bờ cao dốc đứng. Bến đò Hai Xu nối Hòa Quân với làng Thanh Khiết dưới chân Rú Lôông đi ra xã Thanh Lĩnh cũng hai bờ dốc đứng. Vào mùa mưa phùn gió Bắc, dốc đứng hai đầu cầu, hai bờ sông bến đò Hai Xu trơn như đổ mỡ gây nguy hiểm đối với những người đi qua. Trục đường liên xã khác nối liền Hòa Quân vào xóm Tân Lập gập ghềnh quanh co, chỉ một trận mưa đã ngập băng nhiều quãng, khiến giao thông ngừng trệ. Những con đường mòn nội bộ trong các xóm, làng chủ yếu do người dân tạo nên thành những lối nhỏ bé, gai góc bụi bờ. Khe suối nhiều nên khi di chuyển qua các địa phương khác thường phải lội suối, băng rừng... Từ năm 1965, tuyến đường nối Hòa Quân - Thanh Khiết - Đồng Hòa được mở rộng thành đường vận chuyển gỗ bằng xe cơ giới của Lâm trường Thanh Chương, mía cho nông trường Hòa Quân. Trong giai đoạn từ năm 2000-2020, được hưởng lợi từ các dự án giao thông và Chương trình 135 của Chính phủ, hai tuyến đường huyết mạch của xã được nâng cấp và làm mới. Tuyến đường dọc sông Trai được rải nhựa, cầu Động Hẩm được nâng cao và xây dựng bằng bê tông. Dốc Sừng Bò, Eo Tréo được hạ thấp. Tuyến đường nối Hòa Quân về Tân Lập (Hương Tân) được kéo dài, rải nhựa hàng chục km từ Ba Bến của xã Thanh Thịnh, xuyên qua trung tâm xã Thanh Hương lên tận Đồn Biên phòng gần sát với biên giới Việt - Lào. Cầu Ba Bến bắc qua sông Trai nối liền xã Thanh Hương với Thanh Lĩnh; đường Hồ Chí Minh theo hướng Nam Bắc đi qua phía Tây xã đã tạo sự thông thương nối liên xã với các địa phương trong cả nước, chấm dứt cảnh Thanh Hương bị chia cắt, cô lập với các địa phương khác. Phát huy nội lực, hàng chục năm qua, người dân Thanh Hương đã góp công sức, tiền bạc mở rộng các tuyến đường nội bộ, tạo nên hệ thống giao thông liên hoàn hàng chục km, có trên 80% hệ thống đường nội bộ đã được bê tông hóa.

2. Địa lý hành chính

Theo các tài liệu lịch sử, từ thời nhà Lê đã có trang Chi Quân thuộc xã Thái Nhã, sau đó đến thời kỳ nhà Nguyễn trang Chi Quân được đổi thành thôn Hòa Quân. Sách Thanh Chương huyện chí viết: Tổng Võ Liệt gồm 22 xã, thôn. Xã Thái Nhã có 13 thôn. Trong đó có thôn Hòa Quân, xưa gọi là trang Chi Quân, năm Minh Mệnh thứ 5 (1824) đổi thành thôn Hòa Quân. Đến trước năm 1945, thôn Hòa Quân có các xóm nhỏ như Lạng, Trửa, Bàu, Tuần và Đồng Hòa. Thôn Thanh Khiết, xưa dân ít nên gọi là Vạn Trai, đến năm Minh Mệnh thứ 5 (1824) đổi thành thôn Thanh Khiết. Thôn Đồng Dữu trước đây gọi là trang, đến năm Minh Mạng thứ 21 (tức năm 1840) đổi thành thôn Đồng Dữu, sau này gọi là Đồng Du[1].

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, năm 1946 đã bãi bỏ các xã, tổng cũ, đồng thời sáp nhập xã Hòa Quân và các thôn Thanh Khiết, Đồng Dữu cùng xã Thanh La thành xã Đồng Thanh. Đến ngày 20/4/1954, thực hiện chủ trương của cấp trên, xã Đồng Thanh được chia thành 02 xã là Thanh Lĩnh và Thanh Hương. Tên gọi Thanh Hương có từ đó cho đến ngày hôm nay (2024). Địa giới hành chính của xã Thanh Hương có sự thay đổi lớn vào năm 2009, sau khi Nhà nước có chủ trương cắt một phần diện tích của xã Thanh Hương để thành lập xã Ngọc Lâm.

II. SỰ HÌNH THÀNH DÂN CƯ

Thanh Hương là vùng đất có sự hình thành dân cư và làng xóm từ sớm. Từ thế kỷ XVI-XVII, thời Lê ở đây đã hình thành các điền trang như trang Chi Quân[2], trang Đồng Dữu. Các điền trang này được hình thành dựa trên cơ sở khai phá ruộng đất hoang của các gia tộc lớn trước đây. Nguồn gốc của Nhân dân nơi đây là từ các nơi khác tới, họ đi theo đường sông từ sông Lam vào sông Trai rồi lên đây cư trú. Một bộ phận lên bờ khai hoang, hình thành nên các điền trang, còn bộ phận khác lại sống trên sông nước, sau đó thành các vùng dân cư gọi là vạn như vạn Trai (Thanh Khiết). Quá trình khai thác tự nhiên, Nhân dân nơi đây đã in hằn lên các tên đồi, tên núi, tên khe, tên suối, tên ruộng, tên đồng như: Rọng (ruộng) Trai, Rọng Sắn, rọng Đồng Ngoài; rú Đại Can, Tháp Bút, rú Sừng Bò, hòn Nhôn, Eo Tréo; Rào Lang, Rào Mạn Tác; Khe Mọ, Vực Su, Hói Tép, hói Thuồng Luồng...

Cùng với người Kinh, trước đây, trên vùng đất Thanh Hương còn có một bộ phận cư dân khoảng vài trăm người của bộ tộc Đan Lai. Tộc người này với đặc điểm quần cư trong rừng, sống trong các hốc cây, hang đá. Đời sống sinh hoạt là săn bắt, hái lượm. Do trình độ lạc hậu, sinh sống hoang dã nên dân số không phát triển vì phần lớn trẻ sinh ra bị chết yểu. Người dân Đan Lai đã tồn tại hàng trăm năm trên vùng sông Trai nhưng sau này đã di cư lên sinh sống tại rừng núi huyện Con Cuông.

Vào những năm 60, 70 của thập kỷ XX, nhân dân một số xã trong huyện như Thanh Luân, Thanh Lĩnh, Thanh Tường, Thanh Văn… thực hiện chủ trương di dân, giãn dân đi làm kinh tế mới nên đã tới Thanh Hương sinh sống và trở thành một bộ phận của người dân Thanh Hương hôm nay. Cũng thời gian này, vùng Đồng Du được cắt về xã Thanh Lĩnh.

Năm 2006, thực hiện chủ trương của cấp trên về xây dựng hồ thủy điện Bản Vẽ, một bộ phận người dân tộc Thái, Khơ mú đã về định cư trên địa bàn xã Thanh Hương. Đến năm 2009, thực hiện chủ trương của Nhà nước đã thành lập xã Ngọc Lâm nên toàn bộ người dân tộc Thái, Khơ Mú chuyển về sinh hoạt tại đơn vị mới.

Quá trình phát triển, các xóm nhỏ, các hợp tác xã nông nghiệp cũng được hình thành. Đầu thế kỷ XIX, vùng đất Thanh Hương có ba thôn là Hòa Quân, Đồng Dữu và Thanh Khiết. Đến đầu thế kỷ XX, thôn Hòa Quân tách ra khỏi xã Thái Nhã thành lập xã riêng. Xã Hòa Quân lúc đó có các xóm nhỏ là Lạng, Trửa, Bàu, Tuần và Đồng Hòa. Thời kỳ này, xã Hòa Quân có 120 hộ dân với 40 tráng đinh, 120 lão, ấu. Riêng vùng Đồng Hòa chỉ có 06 hộ dân. Cách mạng tháng Tám thành công, đầu năm 1946, thực hiện chủ trương của cấp trên, xã Hòa Quân, xã Thanh La, làng Đồng Du, làng Đồng Hòa, xóm Thanh Khiết sáp nhập thành xã Đồng Thanh. Xã Đồng Thanh chia thành 07 khu vực là Đông, Đoài, Nam, Bắc, Đồng Du, Hòa Quân và Công Văn. Sau khi chia tách xã (1954), xã chia thành các xóm nhỏ, tiếp đó khi xây dựng hợp tác xã, toàn xã Thanh Hương thành lập 11 đơn vị là: Hòa Bình, Hòa Lạc, Hòa Mỹ, Thanh Am, Thanh Trì, Thanh Long, Thanh Sơn, Thanh Tuyền, Hương Thủy, Hương Tân và Hương Hòa.

Giai đoạn 1963-1964, thực hiện chủ trương sáp nhập các hợp tác xã nhỏ thành hợp tác xã quy mô. Các hợp tác xã Thanh Am và Thanh Trì sáp nhập thành Thắng Lợi; Thanh Sơn và Thanh Truyền sáp nhập thành Quyết Tiến; Hòa Bình, Hòa Lạc, Hòa Mỹ sáp nhập thành Hương Lam (4/1964).

Giai đoạn 1965-1966, Hợp tác xã Thắng Lợi sáp nhập với Hợp tác xã Hương Thủy thành Hợp tác xã Hương Liên. Hợp tác xã Quyết Tiến cắt Hương Tuyền ra, sáp nhập vào Hợp tác xã Thanh Long gọi là Hợp tác xã Hương Sơn. Còn Hợp tác xã Hương Tuyền sáp nhập với Nông trang Lĩnh Bình gọi là Hợp tác xã Hương Tiến.

Giai đoạn 1967-1968, cắt Hợp tác xã Hương Lam về xã Thanh Lĩnh. Sáp nhập Hợp tác xã Hương Liên với Hợp tác xã Hương Sơn thành Hợp tác xã Hương Trung.

Giai đoạn 1969-1971, các hợp tác xã Hương Trung, Hương Tân, Hương Tiến sáp nhập thành Hợp tác xã Hòa Quân.

Tháng 3/1971, Hợp tác xã Hòa Quân, Hương Hòa, Nông trang Hương Quang, Nông trang Hương Hòa sáp nhập thành Hợp tác xã Thanh Hương. Khi thành lập hợp tác xã sản xuất nông nghiệp quy mô toàn xã Thanh Hương, các đơn vị làng, xóm cũ được thay thế thành đội sản xuất mang số tự nhiên từ 01 đến 13.

Đến những năm 1990-1991, mô hình hợp tác xã sản xuất nông nghiệp không hiệu quả nên đã chuyển sang cơ chế mới, từ đó tên đội sản xuất được thay thế bằng xóm. Địa giới hành chính các xóm tương ứng với đội sản xuất của thời hợp tác xã.

Năm 2006, Thanh Hương tiếp nhận hơn 100 hộ dân lòng hồ Thủy điện Bản Vẽ thuộc huyện Tương Dương về tái định cư theo chủ trương của tỉnh. Vùng đất rộng lớn hàng ngàn hecta của Thanh Hương giáp với xã Thanh Thịnh và biên giới Việt - Lào trở thành quê mới của số cư dân này. Năm 2009, vùng đất này được tách ra để thành lập xã Ngọc Lâm.

Đến năm 2019, xã Thanh Hương từ 13 xóm được sáp nhập lại thành 06 xóm, tên xóm được đặt theo số thứ tự nhiên từ 01 đến 06.

Về dân số, trước năm 1930, toàn xã chỉ có 150 hộ với chưa đến 1.000 người. Đến năm 1954 đã tăng lên gấp 02 lần, năm 1962 tăng gấp 2,5 lần, đến những năm 1968-1970 tăng hơn 06 lần so trước năm 1930. Nguyên nhân tăng đột biến ấy, ngoài tăng dân số tự nhiên, còn là yếu tố tăng dân số cơ học do những cuộc di dân, dắm dân làm ăn kinh tế mới theo chủ trương của Nhà nước. Các cuộc di dân này đưa hàng loạt cư dân đến từ các xã ven sông Lam như: Thanh Luân, Thanh Lĩnh, Thanh Tường, Thanh Văn[3]... đến với xã Thanh Hương đã làm dân số tăng nhanh. Đến năm 2023, tổng dân số của xã 6.400 người.

Về dân tộc, trên địa bàn của xã Thanh Hương trước đây có một bộ phân dân Đan Lai sinh sống, sau này họ đã chuyển đi nơi khác. Năm 2006, để thi công công trình thủy điện Bản Vẽ, một số đồng bào dân tộc Thái, Khơ mú ở huyện Tương Dương đã di dân về sinh sống trên địa bàn xã; đến năm 2009, theo chủ trương của Nhà nước đã tách số hộ dân này để thành lập xã Ngọc Lâm. Vì thế về cơ bản, đại đa số người dân Thanh Hương là dân tộc Kinh.

Về tôn giáo, trước đây trên đất Thanh Hương có chùa nhưng hiện nay đã không còn, đại đa số Nhân dân không theo tôn giáo nào.

III. VÀI NÉT VỀ ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT VÀ TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂN XÃ THANH HƯƠNG

1. Đời sống vật chất

Trong điều kiện tự nhiên không mấy thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, diện tích đất lúa ít nên rừng trở thành thế mạnh và là nguồn sống của các thế hệ người dân Thanh Hương. Sự phân bố dân cư từ xa xưa phản ánh đặc điểm kinh tế của mỗi làng quê nơi đây. Vùng Hòa Quân nằm ở lưu vực sông Trai và Khe Mọ, nơi có một số diện tích đất phù sa và phe-ra-lít màu mỡ nên ngoài một bộ phận làm rừng, hoạt động kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi). Vùng Thanh Khiết nằm dọc sông Trai dưới chân Rú Lôông với ít đất vùng bãi phù sa tươi tốt và ruộng nước trong các thung lũng nên nhân dân nơi đây đã tận dụng thế mạnh này khai phá trồng màu và trồng lúa nước. Vùng Đồng Hòa là nơi quần cư sát rừng xanh, nên hoạt động kinh tế chính của cư dân nơi đây là nghề sơn tràng. Dưới chế độ thuộc địa và phong kiến, mặc dù rừng xanh bạt ngàn nhưng bị kiểm soát gắt gao, những vùng đất tốt tươi do người dân khai phá rơi vào tay địa chủ, cùng với sưu thuế nặng nề nên đời sống của nhân dân luôn khổ cực. Từ năm 1954 đến năm 2020, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước ta, kinh tế - xã hội của xã Thanh Hương từng bước phát triển. Từ các tổ vần công, đổi công đến hợp tác xã bậc thấp lên bậc cao quy mô toàn xã, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Đặc biệt từ năm 1986, khi có chủ trương đổi mới, sau đó là chủ trương giao đất giao rừng đời sống nhân dân đã có bước nhảy vọt. Các mô hình kinh tế hình thành và phát triển mạnh mẽ, đời sống đại bộ phận nhân dân từ nghèo đói vươn lên giàu có.

2. Đời sống tinh thần

Nhân dân Thanh Hương có đời sống tinh thần rất phong phú. Trước đây, dù điều kiện kinh tế còn khó khăn nhưng các thế hệ người dân Hòa Quân, Thanh Khiết, Đồng Hòa với tình yêu quê hương tha thiết đã dựng xây nên đời sống văn hóa phong phú đậm đà bản sắc.

Về tôn giáo, trên địa bàn xã Thanh Hương có sự hiện diện của đạo Phật từ xa xưa. Cơ sở thờ tự của đạo Phật là Chùa Am. Chùa Am là công trình văn hóa cổ, nơi đây từng có nhà sư trụ trì, là nơi hành hương lễ Phật của người dân trong những ngày lễ. Nhưng do những biến động của lịch sử, sinh hoạt văn hóa này dần dần phai nhạt. Đến đầu thế kỷ 20, ngôi chùa trở thành phế tích.

Về tín ngưỡng, từ xưa người dân Thanh Hương đã có tín ngưỡng thờ mẫu, thờ thánh, thờ thần, thờ ông bà, tổ tiên. Đến năm những 1940, 1950, toàn xã vẫn còn hiện hữu một đình làng và 05 ngôi đền cổ kính, 01 phủ thờ. Đó là đình Hòa Quân, phủ Hòa Quân, đền Hàm Rồng và 03 ngôi đền thờ Thành hoàng của các làng.

Phủ Hòa Quân là công trình kiến trúc cổ, được xây dựng vào đầu thời nhà Nguyễn. Phủ thờ Tam tòa Thánh mẫu rất linh thiêng. Phủ được xây dựng trong cánh rừng bạt ngàn bên dòng sông Trai với những nét kiến trúc tinh tế có hoành phi, câu đối, bia tượng và rất nhiều đồ tế khí. Không gian và cảnh trí u tịch, sau một thời gian bị mai một nay bằng nguồn xã hội hóa, phủ đã được phục dựng lại để đáp ứng phần nào nhu cầu tín ngưỡng của người dân. Với bề dày lịch sử văn hóa và cách mạng, di tích phủ Hòa Quân đã được công nhận là Di tích Lịch sử cấp tỉnh theo Quyết định số 6380/QĐ.UBND ngày 28/12/2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An.

Đền Hàm Rồng được xây dựng trên vách ngọn núi cao có mỏm đá khổng lồ nhô ra vực sâu của sông Trai như dáng hình hàm con rồng. Vì đặc điểm này mà đền có tên gọi là Hàm Rồng. Đền thờ vị thần Cao Sơn cai quản thập nhị Sơn Hà[4]. Theo truyền thuyết, Cao Sơn là một trong số 100 người con của Lạc Long Quân. Do có nhiều công lao cho sự phát triển của con Lạc, cháu Hồng nên đời sau tôn ông là “Cao Sơn hiển ứng Đại Vương”. Xưa đền có ông từ trông nom, hương khói, vào các ngày rằm mồng một hàng tháng, nhân dân trong làng ngoài xã về đây thắp hương rất đông. Rằm tháng giêng là ngày lễ chính được làng xã tổ chức cúng tế, lễ hội, rước kiệu, rước cờ sôi nổi. Trong kháng chiến chống Pháp, để phục vụ sự nghiệp cách mạng, Nhân dân đồng tình cho Liên khu 4 lấy đền Hàm Rồng đặt xưởng sản xuất quân giới. Ngày 15/7/1947, xưởng quân giới xẩy ra vụ nổ làm 08[5] chiến sỹ quân giới hy sinh, toàn bộ ngôi đền bị hư hỏng hoàn toàn. Đền Hàm Rồng từ đây chỉ còn vết tích. Đến đầu thế kỷ 21, Nhân dân và chính quyền đã phục dựng lại Đền Hàm Rồng. Đây không chỉ là một địa điểm sinh hoạt văn hóa tâm linh mà còn là một di tích lịch sử, gắn liền với các hoạt động cách mạng, là nơi hy sinh anh dũng của 08 chiến sỹ khi tuổi đời còn trẻ.

Ba ngôi đền thờ Thành hoàng là đền Hòn Trúc thờ Thần hoàng Minh Vương của xóm Trửa; đền thờ Thần hoàng Ngô Vương của làng Thanh Khiết (còn gọi là đền Vạn); đền Rú Lôông thờ Thần hoàng Cúc Vương của xóm Công Văn. Tuy nhỏ hơn phủ Hòa Quân và đền Hàm Rồng nhưng tất cả đều đẹp và cổ kính. Đền Thần hoàng xóm Trửa được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVI-XVII. Đền Thần hoàng Công Văn được xây dựng vào thời Nguyễn. Các đền đều có ông từ trông nom hương khói, lễ chính những ngôi đền này cũng diễn ra ngày rằm tháng giêng hàng năm.

Đình Hòa Quân đặt ở trung tâm làng Hòa Quân xưa. Đây là ngôi đình có hai tòa là Thượng và Hạ. Đình Thượng dùng để làng cúng tế nên quanh năm đóng cửa, chỉ đến ngày hội, giới chức sắc mới mở cửa thắp hương cúng lễ. Lễ hội một năm diễn ra một lần kéo dài nhiều ngày với nhiều trò chơi, thu hút đông đảo người dân tham gia. Đình Hạ là nơi bàn việc làng, việc nước của giới chức sắc trong làng. Đình có trống Hòa Quân lớn, tang mít da trâu, đường kính trên một mét được dùng trong những ngày hội làng, hay ngày nộp sưu thuế. Trong cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh 1930, trống Hòa Quân được Chi bộ Đảng đưa lên rú Sừng Bò sử dụng phát lệnh, thúc dục người dân tham gia đoàn biểu tình cướp huyện đường. Bởi gắn với sự kiện cách mạng này, nên trống Hòa Quân trở thành hiện vật cách mạng đang được lưu giữ trưng bày ở Bảo tàng Cách mạng Việt Nam. Trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, đình Hòa Quân là nơi diễn ra việc bàn giao triện đồng, sổ sách, tài liệu của chính quyền thực dân phong kiến cho Ủy ban Khởi nghĩa ngày 28/5/1945, đánh dấu sự sụp đổ của chế độ phong kiến ở địa phương. Trong kháng chiến chống Pháp, đình là nơi diễn ra Hội nghị đại biểu Đảng bộ huyện Thanh Chương năm 1949. Đăc biệt, từ ngày 14 đến ngày 21/5/1951 đã diễn ra Đại hội đại biểu Đảng bộ Liên khu IV lần thứ III, với sự tham dự của 170 đại biểu đến từ các tỉnh vùng tự do Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và các tỉnh bị địch tạm chiếm Bình - Trị - Thiên, để tiếp tục quán triệt đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện của Trung ương Đảng và vạch ra chủ trương chiến lược của Liên khu, đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi. Trong giai đoạn 1957-1958, đình được sử dụng làm lớp học cho học sinh mẫu giáo. Đến năm 1960, đình được chuyển làm trại phụ lão, sau đó đình Hạ được chuyển về làm kho hợp tác xã gọi là kho lớn. Đến năm 1993, chuyển về làm trường cấp 2. Đình Thượng sau nhiều biến cố di dời làm trụ sở chính quyền, làm nhà gác phòng không trong kháng chiến chống Mỹ và “lưu lạc” nhiều nơi đã được chính quyền xã mua lại đưa về dựng tại xã.

Nét đặc sắc của đời sống văn hóa xã Thanh Hương là những lễ hội truyền thống. Trước năm 1945, lễ hội mùa xuân là sinh hoạt văn hóa diễn ra sôi nổi. Tại các đền, chùa vào dịp rằm tháng Giêng hàng năm, bên cạnh lễ tế, còn có rước kiệu, rước cờ, phần hội với nhiều trò chơi như đua thuyền trên sông Trai, đánh đu tiên, đu tay, vật, hát tuồng chèo... diễn ra nhiều ngày. Sau năm 1945, do phải đương đầu với những khó khăn trong công cuộc xây dựng, bảo vệ chính quyền non trẻ và dốc sức cho cuộc kháng chiến kiến quốc, tiếp đó là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cùng với việc xóa bỏ tệ nạn mê tín nên sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian cũng dần mai một. Thay vào đó là các sinh hoạt văn hóa mới như: văn nghệ quần chúng, thông tin tuyên truyền, thể dục thể thao phục vụ sản xuất và chiến đấu, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ đất nước.

Đời sống văn nghệ của người dân Thanh Hương còn thể hiện ở các phường hội hát, hò. Sau mỗi vụ mùa màng hoặc lúc nông nhàn, hội phường trò của những người yêu văn nghệ dân gian lại tập hợp diễn các vở tuồng chèo lịch sử có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, như Tống Trân Cúc Hoa, Lưu Bình Dương Lễ, Trưng Trắc Trưng Nhị... Vào những đêm trăng thanh gió mát, thanh niên trai gái cùng nhau hát phường vải, hát ghẹo, hát đối đáp, hát đố bên bờ sông Trai, trên các sườn đồi… Thông qua sinh hoạt văn hóa mang tính dân gian này, nhiều đôi trai gái đã nên duyên chồng vợ. Nét đẹp này tồn tại mãi cho đến những năm 60-70 của thế kỷ XX mới bị mai một.

Trong nghèo khó nhưng người dân Thanh Hương luôn khao khát học hành. Có lẽ vì thế mà nhân dân đã đặt tên cho một ngọn núi trên địa bàn xã là Tháp Bút. Núi giống như hình chiếc bút đang viết vào trang sách là bầu trời, nên nhân dân ở đây gọi là núi Tháp Bút. Nằm bên cạnh núi Tháp Bút là núi Đại Can hùng vỹ, chia cắt giữa hai ngọn núi là tuyến đường huyền thoại, đường Hồ Chí Minh trên bộ. Đặt tên cho ngọn núi này, người dân nơi đây muốn gửi gắm khát vọng về sự thành công trên con đường khoa cử, mong muốn con em mình sẽ thành đạt trong học hành, lưu lại tiếng thơm cho hậu thế. Trong thời kỳ hán học, nhiều người con của Thanh Hương tham gia thi cử và đậu đạt cao như Cử nhân Lê Ngọc Khải, Tú tài Lê Ngọc Uẩn…

Sang thế kỷ XX, khi đất nước ta bị thực dân Pháp cai trị, chúng không mở trường học tại vùng đất Hòa Quân, vì vậy số người biết chữ chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Nhờ tấm lòng những người thầy nho biết Quốc ngữ đã gieo chữ cho người nghèo như thầy Nguyễn Hữu Viện, thầy Trần Hữu Trơng... mà một số dân biết được chữ. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, thực hiện chủ trương “diệt giặc dốt”, người dân Thanh Hương mọi lứa tuổi đêm đêm nô nức đốt đuốc đến các lớp bình dân học vụ, nhờ đó mà nhanh chóng xóa được nạn mù chữ. Tiếp đó là trường học được mở mang, con trẻ nô nức đến trường. Từ năm 1968 đến nay, Thanh Hương có đủ 03 cấp học: vỡ lòng (nay là hệ thống trường Mầm non), cấp 1, cấp 2 (nay là Tiểu học và Trung học cơ sở). Dù trong hoàn cảnh nào, người dân Thanh Hương vẫn rất ham học. Nhiều người con của quê hương đã thành đạt từ con đường học vấn, nhiều người có học vị cao, đảm nhiệm những trọng trách trong bộ máy lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp huyện, tỉnh, các bộ ngành ở Trung ương, sỹ quan cao cấp của công an, quân đội, đại biểu quốc hội, hội đồng nhân các cấp, nghệ sỹ ưu tú…

 

Chương II

TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG

CỦA NHÂN DÂN THANH HƯƠNG TRƯỚC NGÀY THÀNH LẬP XÃ

(Từ khởi nguồn đến năm 1954)

 

I. TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC CỦA NHÂN DÂN THANH HƯƠNG TRƯỚC KHI THÀNH LẬP ĐẢNG

Tinh thần yêu nước và cách mạng là nét nổi bật của Nhân dân Thanh Hương. Tinh thần ấy xuất phát từ cuộc sống lao động chống chọi với thiên nhiên và sự áp bức của các thế lực thù địch và giai cấp thống trị. 

Thế kỷ XVIII, Hòa Quân là một trong những nơi được Lê Duy Mật chọn đóng quân để chống chúa Trịnh nhằm khôi phục triều Lê[6]. Cuối thế kỷ XIX, ngay khi Trần Tấn (ở Thanh Chi, Thanh Chương) và Đặng Như Mai (ở huyện Nam Đàn) cùng các sỹ phu yêu nước phất ngọn cờ Văn Thân với lời hịch “Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây”, nhiều người dân Thanh Hương đã hăng hái gia nhập nghĩa quân chiến đấu chống Pháp. Người con tiêu biểu của Thanh Hương tham gia phong trào yêu nước này là ông Lê Bá Diệu. Ông đã cùng nghĩa quân Văn Thân chiến đấu nhiều nơi và hy sinh trong khi chiến đấu với quân của chính phủ Nam Triều tại chợ Tro huyện Nam Đàn.

Trong Phong trào Cần Vương chống Pháp, Nhân dân Thanh Hương luôn hướng niềm tin vào đức vua Hàm Nghi nên đã hăng hái hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng. Nhiều người con của Thanh Hương như: Nguyễn Cảnh Độc, xuất thân trong một nhà nho cùng các ông Lê Bá Đỉnh, Nguyễn Văn Quynh… đã gia nhập nghĩa quân Phan Đình Phùng chống Pháp.

Năm 1924, các ông Trần Văn Trí, Lê Bá Khiêm, ông Nguyễn Văn Soàn, ông Lê Bá Dũng, ông Nguyễn Xuân Đỉnh… đã đi đầu vận động nhân dân đấu tranh với bọn cường hào giành lại hai mẫu công điền chia cho dân nghèo để phụ vào việc nộp sưu thuế. Phần lớn những người đi đầu trong đấu tranh này trở thành những hạt giống đỏ, sáng lập nên Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam xã Hòa Quân vào tháng 8/1930.

II. TỔ CHỨC ĐẢNG TIỀN THÂN CỦA CHI BỘ XÃ THANH HƯƠNG THÀNH LẬP VÀ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THAM GIA ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930 - 8/1945)

1. Những tiền đề chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

Về chính trị: Sau khi thôn tính Việt Nam, thực dân Pháp đã dựng lên bộ máy cai trị để bóc lột nhân dân ta tàn bạo. Nghệ An thuộc xứ bảo hộ Trung Kỳ, chúng lập Tòa Khâm sứ để trực tiếp chỉ đạo hệ thống chính quyền của phong kiến Nam Triều từ tỉnh, huyện đến các tổng, làng, xã. Tại Võ Liệt, chúng lập đồn Thanh Quả do một sỹ quan Pháp chỉ huy đội lính khố xanh để bảo vệ huyện đường Võ Liệt và đàn áp những cuộc nổi dậy của nhân dân huyện Thanh Chương. Cũng như các địa phương khác, bộ máy chính quyền của Nam triều tại huyện Thanh Chương đứng đầu là quan Tri huyện, dưới huyện là tổng, dưới tổng là làng, xã do Chánh tổng và Lý trưởng đứng đầu.

 Xã Hòa Quân và các làng Thanh Khiết, Đồng Hòa (xã Thanh Hương ngày nay) là 03 đơn vị hành chính thuộc tổng Võ Liệt. Mỗi làng, xã có bộ máy cai trị gồm: một Lý trưởng quản lý mọi mặt, trực tiếp thu sưu thuế; một phó Lý giúp việc; một Hương bạ theo dõi sinh tử, giá thú; một Hương mục lo việc đường sá, cầu cống; một Hương kiểm lo việc an ninh trật tự; một Hương hào lo việc lễ nghi cúng tế. Cạnh đó, mỗi làng xã còn có một Chánh hương Hội đồng thủ chỉ.  Để đàn áp nhân dân, mỗi làng xã có một Chánh đoàn, một phó Chánh đoàn chỉ huy một đội đoàn phu ngày đêm rình mò, theo dõi lùng bắt và ra tay khủng bố, đánh đập bắn giết những người chống đối. Sau Cao trào cách mạng 1930-1931, tại Hòa Quân chúng còn lập ra một đồn lính khố đỏ đóng tại nhà ông Nguyễn Tư Kiên để đàn áp phong trào cách mạng, bắt bớ những người yêu nước và những người cộng sản. Để quản lý rừng, chúng lập đồn Hương kiểm có trang bị súng ống đóng tại nhà ông Nguyễn Văn Lữ, hằng ngày chuyên cướp bóc lâm sản của những người dân Thanh Hương. Bộ máy thống trị của chế độ phong kiến này với điểm tựa bảo hộ của Tòa Khâm sứ và hệ thống đồn bốt, cùng với chính sách cai trị của chủ nghĩa thực dân, tạo cho bọn cường hào thỏa sức áp bức bóc lột nhân dân ta.

Để dễ bề cai trị, chúng chia cư dân thành 03 loại gồm: làng Hào, làng Hộ và cùng đinh. Làng Hào là những hào lý đương chức và địa chủ có thế lực; làng Hộ là nông dân và những cựu hào Lý tiến bộ; cùng đinh là tầng lớp nghèo khổ bần cùng chiếm đại đa số cư dân. Sự phân loại này là để theo dõi và thẳng tay đàn áp tư tưởng tiến bộ của dân ta từ trong trứng nước. Để dễ bề đè nén, chúng chia đàn ông thành hai loại tráng đinh và bần đinh. 150 hộ dân Hòa Quân ngày ấy chúng liệt ra 40 tráng đinh và bắt gánh vác những công việc nặng nhọc dưới làn roi vọt và bắt bớ đi đoàn phu, làm công cụ đàn áp nhân dân. Phụ nữ không có quyền lợi, địa vị gì trong làng xã, không được quyền bầu cử, không được tham gia bàn việc làng nhưng phải chịu sự sai khiến làm tạp dịch cho bọn Lý trưởng cường hào. Ai chậm chạp là chịu đòn roi thậm tệ. Ngoài bộ máy cai trị theo chức danh, Lý trưởng các làng xã cử ra Seo làng (còn gọi là “thằng mõ”) để sai khiến việc vặt hằng ngày cho hào lý.

Để vơ vét tiền bạc, thực dân phong kiến bày đặt ra lễ bán chức. Chúng bán từ chức chánh tổng đến ngũ hương. Giá bán tùy theo vị trí chức sắc, ai có tiền mua chức gì được mang danh chức đó. Người bỏ tiền ra mua chức được miễn trừ các khoản nghĩa vụ tuần sương, canh điếm và các việc phu phen tạp dịch khác. Mỗi dịp lễ làng, hội họp được ngồi theo thứ hạng nhưng không có thực quyền gì. Những người mua chức sắc, thực chất là để mua danh và để tránh phải làm những việc phu phen tạp dịch, tránh bị sai khiến, áp bức.

Về kinh tế: Trước sự áp bức bóc lột của chúng, người dân Hòa Quân, Đồng Hòa, Thanh Khiết lâm vào cảnh đói rách bần cùng bởi sưu cao, thuế nặng và sự vơ vét bóc lột của địa chủ trong và ngoài xã. Nặng nhất là thuế thân, tức thuế đinh. Đến trước năm 1930, mỗi suất thuế đinh tăng từ 03 hào năm 1897 lên 2,5 đồng, rồi tăng lên 03 đồng/suất đinh, chưa kể việc phù thu lạm bổ của bọn hào lý. Sưu thuế trở thành mỗi lo đè nặng lên mỗi gia đình, trong lúc cả 03 làng trước năm 1930 có 307 mẫu ruộng đất thì phần lớn ruộng đất màu mỡ nằm trong tay địa chủ, phú nông trong, ngoài xã. 30 mẫu công điền trên danh nghĩa giành để phục vụ hội hè lễ lạt, cúng tế việc làng nhưng thực tế là để bọn hào lý kiếm chác. Phần của dân nghèo là ít đất cằn, ruộng lầy thụt ở sâu xa trong các thung lũng luôn bị thú rừng phá hoại. Làm thuê, làm mướn thì tô tức nặng nề. Khai thác lâm sản thì bị hương kiểm, đoàn phu cướp bóc. 30 mẫu ruộng công nói là để lo việc làng bị bọn hào lý quan tham lợi dụng vơ vét. Mỗi dịp hội hè, việc làng việc xã, bọn quyền quý chức sắc thì mâm cỗ no say, quà kính, quà biếu, người dân thì đóng nộp nếp xôi rền, lợn béo. Nhà nào làm sai thì bị phạt kê chân dưới cột. Chính trị bị áp bức đè nén, kinh tế bị bóc lột nặng nề khiến nhân dân lầm than khổ cực, nhiều gia đình ly tán, phiêu bạt đi nơi khác, như gia đình ông Lê Bá Điền phải bỏ làng trốn chạy lên Gay (Anh Sơn) sinh sống.

Về văn hóa, giáo dục: Chúng thực hiện chính sách ngu dân. Cả huyện Thanh Chương chỉ có một trường Tiểu học ở Võ Liệt và một số trường Sơ đẳng tiểu học ở Bích Thị, Đại Định, Đạo Ngạn và chỉ có những người khá giả mới có điều kiện cho con đến trường. Theo các cụ cao niên cho biết, đến năm 1945, toàn xã chỉ 04 người đậu Yếu lược, 99% dân số mù chữ quốc ngữ. Những sinh hoạt văn hóa, lễ hội truyền thống bao đời của dân ta bị bọn cường hào lợi dụng, kiếm chác. Tệ cờ bạc mặc sức phát triển.                

2. Sự ra đời của tổ chức Đảng

Từ khi thực dân Pháp đặt nền thống trị lên đất nước ta, cũng như mọi nơi khác, người dân Thanh Hương chìm trong đêm dài nô lệ. Phong trào Văn Thân, Cần Vương đã thôi thúc người dân Thanh Hương tham gia đánh Pháp nhưng tất cả đều bị thất bại. Đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước của nhân dân ta chuyển sang thời kỳ mới. Ngày 03/02/1930, với tư cách là Ủy viên Quốc tế Cộng sản, Ủy viên Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách Cục phương Nam, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và hợp nhất 3 tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam, chính đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thống nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Ngày 20/3/1930, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của xứ ủy Trung kỳ, Hội nghị đại biểu các Chi bộ Cộng sản huyện Thanh Chương được tổ chức tại đền Tiến Sơn, xã Thanh Long. Hội nghị đã bầu ra Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam huyện Thanh Chương. Đồng chí Tôn Gia Tinh được bầu làm Bí thư Huyện ủy lâm thời.

Sau khi được thành lập, Huyện ủy đã có chủ trương tiến hành phát triển Đảng ở các cơ sở. Những đường dây liên lạc bí mật của Huyện bộ với nhiệm vụ: phát triển cơ sở cách mạng và tổ chức cơ sở Đảng đã về chắp nối liên lạc với những quần chúng ưu tú Hòa Quân. Bà Tôn Thị Quế, Ủy viên Huyện bộ, cùng ông Tôn Gia Chung cán bộ Huyện bộ về nắm tình hình gây cơ sở, giác ngộ quần chúng. Tiếp đến ông Nguyễn Như Mão, quê ở Đại Định, Đại Đồng, cán bộ Huyện bộ về bắt liên lạc với ông Nguyễn Tư Kiên và ông Nguyễn Tư Vạn. Đồng thời ông Nguyễn Hữu Viện quê Võ Liệt, cán bộ tuyên truyền của Huyện bộ là thầy giáo dạy học tại Hòa Quân, chủ động bắt liên lạc với ông Đậu Đình Lĩnh, một quần chúng ưu tú của Hòa Quân… những hạt nhân nòng cốt tại Hòa Quân ấy tạo nên sự chín muồi cho sự ra đời tổ chức Đảng.

Đầu tháng 8/1930, tại nhà thờ cố Cửu Triên họ Nguyễn Tư (tức ông Nguyễn Tư Triên, còn có tên gọi khác là Nguyễn Tư Kiên), dưới sự chủ trì của cán bộ Huyện bộ, những quần chúng ưu tú của Hòa Quân nhóm họp thành lập nên Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam xã Hòa Quân, còn gọi là Chi bộ Giáp Ngũ, mang bí danh HQ. Chi bộ có 08 đảng viên bao gồm: ông Nguyễn Tư Vạn, Đậu Đình Lĩnh, Nguyễn Tư Kiên, Đinh Văn Tiệm, Lê Như Mỹ, Nguyễn Xuân Phớn, Nguyễn Hữu Viện và bà Nguyễn Thị Sen. Ông Nguyễn Tư Vạn được bầu làm Bí thư Chi bộ, ông Nguyễn Tư Kiên được bầu làm Phó Bí thư Chi bộ. Hội nghị thành lập Chi bộ Đảng Hòa Quân xác định: Chi bộ Hòa Quân là tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc Huyện bộ Thanh Chương, có trách nhiệm triển khai chỉ thị của trên, phát động và tổ chức quần chúng đứng lên đấu tranh không chỉ riêng trong phạm vi xã Hòa Quân mà cả làng Thanh Khiết và Đồng Hòa; chủ động liên lạc với các tổ chức Đảng các địa phương cùng phối hợp phát động quần chúng đấu tranh; thông qua phong trào cách mạng mà bồi dưỡng giác ngộ quần chúng để phát triển đảng viên.

Cũng tại cuộc họp thành lập này, chi bộ đã phân công ông Nguyễn Tư Kiên phụ trách nhiệm vụ Cứu tế. Ông Lê Như Mỹ phụ trách Tài chính (sau này ông được bầu làm Bí thư Tổng Đảng bộ Đảng Cộng sản Đông Dương[7]). Bà Nguyễn Thị Sen làm Bí thư Phụ nữ. Ông Nguyễn Xuân Phớn phụ trách Nông hội. Ông Nguyễn Hữu Viện cán bộ tuyên truyền của Huyện bộ phụ trách công tác Tuyền truyền của Chi bộ Hòa Quân. 

Sự ra đời Chi bộ Hòa Quân, đã đưa tổng số tổ chức cơ sở Đảng ở Thanh Chương lên 20 chi bộ ở 20 làng, xã trên tổng số 78 làng xã của toàn huyện. Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam xã Hòa Quân ra đời là một quy luật tất yếu trước nhu cầu thực tiễn của cách mạng: Nhân dân Hòa Quân đã tràn ngập khí thế đấu tranh, cần phải có một tổ chức tiên phong lãnh đạo mới đi đến thành công. Sự ra đời Chi bộ Đảng Hòa Quân là bước ngoặt quan trọng, mở ra trang mới trong lịch sử đấu tranh cách mạng của Nhân dân Hòa Quân, Thanh Khiết, Đồng Hòa, bởi từ đây phong trào đấu tranh chống áp bức bóc lột của thực dân - phong kiến ở đây đã có sự lãnh đạo trực tiếp của chính Đảng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thông qua tổ chức cơ sở Đảng là Chi bộ Hòa Quân, nơi tập hợp những người ưu tú nhất của Nhân dân Thanh Hương. 

3. Chi bộ Đảng lãnh đạo Nhân dân tham gia phong trào cách mạng 1930 - 1931

Sự ra đời của Chi bộ Đảng Hòa Quân đúng vào lúc phong trào cách mạng của Nhân dân Thanh Chương phát triển mạnh dần đến cao trào, thôi thúc người dân Hòa Quân, Thanh Khiết, Đồng Hòa đứng lên đấu tranh. Trước khí thế cách mạng của Nhân dân Hòa Quân, Thanh Khiết, Đồng Hòa đang sục sôi, Chi bộ Đảng Cộng sản Hòa Quân đã lãnh đạo đưa phong trào cách mạng của nhân dân nơi đây hòa cùng phong trào cách mạng chung của huyện. Nhà thờ cố Cửu Triên họ Nguyễn Tư (tức ông Nguyễn Tư Triên, còn có tên gọi khác là Nguyễn Tư Kiên) được chi bộ chọn làm địa điểm sinh hoạt và cất dấu vũ khí.

 Ngày 10/8/1930, ngay sau ngày thành lập, khi nghe tiếng trống báo hiệu bọn lính Tây ở đồn Thanh Quả chuẩn bị về các làng quê cướp của bắt người, Chi bộ Hòa Quân đã lãnh đạo nhân dân nổi trống báo hiệu, sẵn sàng đối phó nếu lính Tây về làng, đồng thời vận động nhân dân huy động trên 60 quần chúng tham gia vào cuộc biểu tình cùng Nhân dân các làng xã quanh đồn Thanh Quả, phản đối lính Tây về làng cướp phá.

Đến cuối tháng 8/1930 để đối phó với âm mưu của địch, Huyện ủy Thanh Chương quyết định tổ chức cuộc tổng biểu tình toàn huyện vào ngày 01/9/1930. Thực hiện chủ trương này, Huyện ủy phân công cán bộ về cơ sở tổ chức họp các chi bộ triển khai nhiệm vụ.

Chi bộ Đảng Hòa Quân được Huyện bộ giao nhiệm vụ tổ chức thuyền bè phương tiện cho lực lượng biểu tình các làng xã đi qua vượt sông Trai, Khe Mọ, đồng thời huy động quần chúng trên địa bàn tham gia đoàn biểu tình, chuẩn bị trống trên đỉnh Sừng Bò để phát lệnh... Đêm 31/8/1930, tự vệ các làng xã chốt chặn mọi ngả đường, cắt đứt đường chi viện của địch về Thanh Chương. Lực lượng tự vệ đỏ Hòa Quân chốt các ngả đường, bảo vệ và dẫn đường cho đoàn biểu tình đi qua. 1 giờ sáng ngày 01/9/1930, đúng theo hợp đồng từ trước, khi tiếng trống lệnh tiếp nối nhau vang lên trên các đỉnh núi cao của tổng Xuân Lâm, trên núi Tiến (xã Võ Liệt), Rú Nguộc (xã Ngọc Sơn); tại xã Hòa Quân trống được đưa lên đỉnh Sừng Bò để gióng lên báo hiệu, đây là thời khắc đi vào lịch sử với tiếng trống Xô viết Hòa Quân. Cả huyện Thanh Chương rộn vang tiếng trống, chiêng, mõ tre và tiếng hò reo thôi thúc nhân dân tham gia cuộc biểu tình. Nhân dân phía hữu ngạn sông Lam, từ phía Bắc vượt sông Giăng, sông Trai, sông Rộ qua thuyền mảng đã được chuẩn bị sẵn, đi qua mỗi làng xã, lực lượng lại được bổ sung thành một mũi tiến công về huyện đường. Phía tả ngạn sông Lam, đoàn biểu tình hội quân tại Nguyệt Bổng vượt sông Lam, bị lính bên này sông bắn sang làm một người hy sinh nhưng vẫn không làm đoàn biểu tình nao núng. Hai vạn người tham gia biểu tình có sự bảo vệ của tự vệ đỏ, được tổ chức chặt chẽ đã bao vây đốt phá huyện đường, thiêu hủy hồ sơ tài liệu, đập phá nhà giam giải thoát tù nhân, phá nát sở rượu phong-ten ở chợ Rộ, đập phá nhà ở và lùng bắt Tri huyện Phan Sỹ Bàng. Khi đoàn tiến về đến đồn Thanh Quả, bị lính khố xanh nã đạn như mưa, để bảo toàn lực lượng, đoàn biểu tình mới chịu dừng lại. 4 giờ chiều cùng ngày, đoàn biểu tình bao vây đội lính khố xanh được chi viện từ Vinh lên giải vây và đàn áp cuộc biểu tình. Trong vòng vây của quần chúng, lại được cán bộ ta tuyên truyền giải thích, đội lính này tan rã, kẻ bỏ chạy, người vứt súng hòa vào đoàn biểu tình trở về với nhân dân.  

  Cuộc biểu tình gồm hai vạn người dân Thanh Chương làm rung chuyển bộ máy cai trị của thực dân phong kiến, là bước ngoặt của phong trào cách mạng phát triển lên cao trào Xô viết, là mốc mở đầu đánh dấu sự ra đời của chính quyền Xô viết ở Nghệ Tĩnh, đỉnh cao của Cao trào cách mạng 1930-1931 trên toàn quốc. Khắp nơi ở Thanh Chương và tỉnh Nghệ An, chính quyền địch bắt đầu rệu rã. 

Thực hiện nhiệm vụ mà cuộc họp thành lập chi bộ đã thống nhất, bên cạnh lãnh đạo và tổ chức nhân dân tiến hành các cuộc đấu tranh, các đảng viên theo nhiệm vụ được phân công đã bắt tay vào việc thành lập các tổ chức quần chúng cách mạng. Đồng chí Nguyễn Hữu Viện thông qua nghề dạy học của mình đã mở rộng tuyên truyền vận động cách mạng trong các tầng lớp nhân dân. Nhờ sự tích cực hoạt động của chi bộ Đảng, nên từ tháng 9 đến tháng 12/1930, Hòa Quân đã tập hợp nhân dân vào các tổ chức quần chúng cách mạng như Nông hội, Phụ nữ, Thanh niên.

Hệ thống tổ chức nông hội được hoàn thiện từ xã đến 04 thôn của Hòa Quân và làng Thanh Khiết với tổng số hội viên trên 100 người do ông Nguyễn Xuân Phớn làm Bí thư Nông hội xã. Nông hội thôn Lạng Sơn do ông Nguyễn Văn Phán làm Tổ trưởng; Nông hội các thôn Tuần là ông Nguyễn Tư Mận, thôn Bàu Điểm là ông Lê Bá Tuấn, thôn Trửa là ông Nguyễn Xuân Nhuyện. Nông hội làng Thanh Khiết do ông Nguyễn Văn Kính làm tổ trưởng[8].

Tổ chức Thanh niên Cộng sản Hòa Quân tập hợp được 30 hội viên do ông Phan Doãn Viện (bí danh là Cuông) làm Bí thư. Ông Nguyễn Văn Phán và ông Nguyễn Văn Ất là Ủy viên Chấp hành[9].

Hội Phụ nữ Hòa Quân với 120 hội viên, do bà Nguyễn Thị Sen làm Bí thư. Các bà Nguyễn Thị Ven, Đinh Thị Lý là những Ủy viên Ban Chấp hành[10]. Hội Phụ nữ có chủ trương vận động hội viên và phụ nữ toàn xã ra đường phải cải trang trang phục và mang theo vũ khí để tự vệ.

Hội Cứu tế tập hợp tất cả các tầng lớp phú - trí - địa hào và mọi lứa tuổi đang ở ngoài các tổ chức nông hội, thanh niên, phụ nữ để phụng sự cho lực lượng cách mạng do ông Nguyễn Tư Kiên làm Trưởng ban Cứu tế xã. Mỗi thôn bộ có một Tổ trưởng cứu tế là người của Nông Hội đỏ: thôn Lạng Sơn là ông Nguyễn Văn Soàn, thôn Trửa là ông Nguyễn Xuân Phớn và bà Nguyễn Thị Khể, thôn Bàu là ông Nguyễn Xuân Nhuyện, thôn Tuần là ông Đinh Văm Tiệm và bà Nguyễn Thị Cận, làng Thanh Khiết là ông Nguyễn Văn Kính[11].

Để tạo nên sức mạnh và làm chỗ dựa cho phong trào đấu tranh của quần chúng, đầu tháng 10/1930, đội Tự vệ đỏ Hòa Quân được thành lập gồm 25 người do ông Đậu Đình Xa và Nguyễn Văn Võ chỉ huy. Sau đó một thời gian, đội Tự vệ đỏ đổi tên thành Đội cảm tử do các ông Nguyễn Văn Kiêm và ông Nguyễn Văn Châu chỉ huy[12].

Ngày 10/10/1930, Chi bộ đã lãnh đạo nhân dân biểu tình, có sự bảo vệ của Tự vệ đỏ gây áp lực, tiến tới phá Đồn Kiểm lâm Hòa Quân, giải thoát những người dân nghèo đi khai thác lâm sản kiếm sống bị đồn kiểm lâm bắt giam. Thừa thắng, những đảng viên cộng sản đã lãnh đạo cuộc biểu tình kéo tới phá đồn điền Hòa Nghĩa Đầu và Hòa Nghĩa Cầu ở Đồng Hòa[13].

Ngày 25/10/1930, Chi bộ Hòa Quân đã tổ chức lãnh đạo và huy động lực lượng 300 người đấu tranh với hào lý với yêu sách: trả lại tiền nghĩa thương mà chúng bắt nhân dân đóng góp; xóa bỏ nợ công; lấy lại ruộng công điền, công thổ chia cho dân cày nghèo. Kết quả là bọn hào lý đã buộc phải trả lại 300 quan tiền nghĩa thương cho người dân.    

Tiếp đó, vào một ngày cuối tháng 10/1930, thực hiện lệnh của Huyện ủy, Chi bộ Hòa Quân đã huy động 110 người do đích thân đồng chí Nguyễn Tư Vạn, Bí thư Chi bộ chỉ huy, mang theo giáo mác, gậy gộc kéo đi khắp làng Đông Du (nay thuộc xã Thanh Lĩnh), ra đến xã Thanh La biểu dương sức mạnh của quần chúng cách mạng Hòa Quân.

Ngày 02/12/1930, Chi bộ Hòa Quân lãnh đạo thông qua nông hội, tổ chức cuộc mít tinh đấu tranh tịch thu 2,7 mẫu ruộng công chia cho dân, xóa bỏ 400 quan tiền lãi của Hội tế thánh, tế thần. Lực lượng đấu tranh tuyên bố xóa bỏ nợ lãi của địa chủ, phú nông, tuyên bố xóa bỏ cả địa tô chính và địa tô phụ. Nông hội đỏ đã đấu tranh tịch thu 500 hộc lúa (50 tạ) của 04 gia đình địa chủ chia cho dân nghèo. Bọn hào lý Hòa Quân run sợ trước sức mạnh của quần chúng nên trốn chạy, Nông hội đỏ Hòa Quân đã đứng ra điều hành mọi công việc như một chính quyền Xô viết công nông.

Trước sức mạnh của quần chúng cách mạng ở Nghệ Tĩnh, thực dân Pháp cấu kết với chính phủ phong kiến Nam Triều thực hiện nhiều âm mưu chống phá. Đặc biệt chúng đã huy động lực lượng tăng cường về các huyện và các làng xã đàn áp phong trào cách mạng, đồng thời tiến hành những thủ đoạn chính trị mị dân để phân hóa quần chúng cách mạng ở cơ sở

Tại Hòa Quân, đầu năm 1931, Lý trưởng Phan Văn Uyên, Chánh đoàn Lê Bá Dũng, Phó lý Nguyễn Tư Đôn, Hương kiểm Nguyễn Tư Phong... lo sợ và bất lực trước sức mạnh của cách mạng, nên đã yêu cầu binh lính Tây đóng ở đồn Đại Định về đàn áp, đồng thời tăng cường thêm lực lượng đoàn phu. Mục tiêu của chúng là lùng bắt những người lãnh đạo, đàn áp gia đình những đảng viên cộng sản và quần chúng cách mạng. Chúng phá nhà ông Nguyễn Xuân Nhuyện, Đậu Đình Viên (tức ông Xoa), Nguyễn Hữu Viện... Chúng đốt nhà ông Nguyễn Tư Vạn, Nguyễn Tư Kiên, Nguyễn Xuân Phớn, Phan Doãn Viện... Truy lùng bắt cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng. Trong một chiến dịch đàn áp truy lùng, các cán bộ đảng viên, quần chúng cách mạng lần lượt bị địch bắt như ông Đậu Đình Lĩnh, Lê Bá Tuấn, Nguyễn Viết Khiêm, Nguyễn Xuân Nhuyện, Nguyễn Tư Mai[14]...

Bên cạnh tăng cường lực lượng đàn áp, lùng bắt những đảng viên, quần chúng cách mạng, thực hiện chính sách thâm hiểm của chủ nghĩa thực dân, bọn hào lý còn bắt dân bầu ra cái gọi là Hội đồng Ngũ hương chuyên “chăm lo” các lĩnh vực đời sống xã hội. Về thực chất là con bài để ru ngủ quần chúng dưới chiêu bài dân chủ. Bên cạnh Hội đồng Ngũ hương, chúng lập ra Hội đồng Tộc biểu tại các dòng họ. Hoạt động của Hội đồng Tộc biểu theo chỉ đạo của chúng là “giáo dục” những người trong dòng họ không đi theo cộng sản, thường xuyên báo cáo với Hội đồng Ngũ hương tình hình tư tưởng dòng họ, giúp bọn hào lý kiểm soát quần chúng cách mạng ở trong dòng họ. Đầu năm 1931, chúng còn thực hiện chủ trương kéo cờ vàng, phát thẻ quy thuận để kêu gọi nhân dân rời khỏi lực lượng cách mạng, “quy thuận” đi theo chúng. Một số người từng là cán bộ và một số quần chúng cách mạng thiếu kiên định, không chịu nổi khủng bố đã xuất thú, gục ngã trước trò mị dân của địch.

Những thủ đoạn đàn áp, bắt bớ tàn khốc và ru ngủ quần chúng nói trên của địch, phần nào đã làm ảnh hưởng đến phong trào cách mạng. Để phá tan âm mưu của địch, hạn chế tổn thất, những cán bộ, đảng viên thoát được các cuộc truy lùng của địch đã rút vào rừng tiếp tục hoạt động bí mật, như các đồng chí: Nguyễn Tư Vạn, Nguyễn Tư Kiên, Nguyễn Hữu Viện (cán bộ tuyên truyền của Huyện bộ), Phan Doãn Dứa, Đinh Văn Tiệm, Nguyễn Xuân Phớn... Việc lãnh đạo trực tiếp phong trào do một ban lãnh đạo dự bị đảm nhiệm: đồng chí Phan Doãn Viện đảm nhiệm Bí thư Chi bộ; ông Đậu Đình Định làm Bí thư Nông hội, sau này lên làm Bí thư Chi bộ Đảng Hòa Quân; bà Nguyên Thị Sen làm Bí thư Phụ nữ; anh Nguyễn Văn Nhân làm Bí thư Thanh niên.

Sau một thời gian rút vào rừng, tránh sự truy lùng bắt bớ, đầu năm 1931, những cán bộ, đảng viên Hòa Quân thoát khỏi sự truy bắt của địch lại trở về làng trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Để đáp ứng nhu cầu lãnh đạo phong trào trong tình hình mới, trên cơ sở nhân sự ban lãnh đạo dự bị, ban lãnh đạo chính thức được kiện toàn. Đồng chí Phan Doãn Viện chính thức được cử làm Bí thư Chi bộ; ông Đậu Đình Định[15] làm Bí thư Nông hội; anh Nguyễn Văn Nhân làm Bí thư Thanh niên; chị Nguyễn Thị Ven làm Bí thư Phụ nữ, được một thời gian thì bà Nguyễn Thị Lệ lên làm Bí thư phụ nữ[16].

Chi bộ đã cùng ban lãnh đạo mới của Hòa Quân phát động quần chúng thực hiện cuộc đấu tranh mạnh mẽ. Để bảo toàn thành quả cách mạng, tự vệ đỏ và quần chúng cách mạng đã mạnh tay trấn áp, truy bắt và xử tử hình nhiều tên chống đối. Ngoài việc lãnh đạo nhân dân Hòa Quân, Thanh Khiết đấu tranh thắng lợi, nửa đêm 01/5/1931, Chi bộ Hòa Quân còn thực hiện chỉ thị của cấp trên tổ chức huy động lực lượng hơn 100 người phối hợp với nhân dân và tự vệ tổng Võ Liệt, Đồng Văn biểu tình chống thuế và truy bắt bọn cường hào. Những tên cường hào gian ác nhất như Quát, Lâm, Khâm, Bừu phải nhận tội trước nhân dân. Tên phản bội cách mạng Lê Đằng đã phải đền mạng. Nhà của Kiểm khán Trần Đình Lâm bị lực lượng biểu tình phá hủy. Khí thế quần chúng cách mạng trong cuộc biểu tình đang lên cao như nước lũ thì vấp phải sự bao vây của lực lượng đoàn phu do Bang tá Soạn chỉ huy. Cuộc biểu tình chỉ kết thúc khi Bang tá Soạn ra lệnh cho bọn đoàn phu xả súng vào lực lượng biểu tình làm một số quần chúng cách mạng hy sinh.

Tại Hòa Quân, Thanh Khiết sau những cuộc biểu tình và trừng trị bọn cường hào, đã khiến chính quyền địch mới được khôi phục bị tan rã, một lần nữa dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Hòa Quân, Nông hội đỏ tiếp tục công khai đứng ra điều hành mọi hoạt động xã hội như một chính quyền Xô viết, có sự bảo vệ của tự vệ đỏ. Chỉ tồn tại trong thời gian ngắn nhưng chính quyền Xô viết Hòa Quân đã tiến hành những công việc hoàn toàn mới, thực sự là một chính quyền của dân, vì dân. 

Về kinh tế: Đã tịch thu tổng số 30 mẫu đất công chia cho dân nghèo. Tịch thu 300 quan tiền nghĩa thương mà bọn hào lý bắt dân đóng trả lại cho nhân dân. Thiêu hủy sổ sách tiền cho vay nặng lãi tới 40% của bọn hào lý từ 400 quan tiền quỹ của Hội tế văn. Tuyên xóa bỏ các khoản nợ công, nợ lời mà bọn phú hữu áp đặt lên dân nghèo. Tịch thu 50 tạ lúa của 04 địa chủ chia cho nhân dân. Trước đó đã tịch thu 36 con trâu bò tại trại Vụng Lấm của địa chủ Võ Văn Điềm, lấy lúa của Cửu Cởn tạo nguồn tiếp tế cung cấp lương thực, thực phẩm cho nhiều cán bộ, đảng viên, quần chúng cách mạng ở Hòa Quân, Thanh Khiết và ở nhiều địa phương khác thuộc huyện Thanh Chương phải rút vào khu vực Mạn Tác, Hòa Quân, tránh sự truy bắt của địch. Trước tình hình hạn hán kéo dài thiếu nước cho sản xuất, để tránh mất mùa đói kém do hạn hán gây ra, tháng 3/1931 chính quyền Xô viết Hòa Quân do Nông hội đỏ điều hành đã vận động nhân dân đào mương dẫn nước từ Bàu Sen ra đến chân ruộng Sắn và tát nước chuyền qua 06 bậc để gieo 06 sào mạ lúa Hè - Thu, đồng thời đào mương dẫn nước khe về gieo mạ xứ ruộng Núi và gánh nước tưới cho 02 mẫu 05 sào khoai lang.

Về văn hóa - xã hội: Tổ chức vận động nhân dân sửa chữa con đường từ xóm Tuần đến xóm Lạng, những con đường nội bộ các xóm khác cũng được tổ chức nâng cấp để nhân dân đi lại thuận lợi làm thay đổi diện mạo làng quê.

Tệ nạn mê tín ngự đồng, rượu chè cờ bạc bị bãi bỏ và ngăn cấm. Ai đi chợ bán hàng mã bị tịch thu, tiêu hủy. Ai ra đường có hơi men bị kiểm điểm trước dân. Người nào đánh bạc, tổ chức đánh bạc bị quy tội theo đế quốc. Hôn nhân, được tổ chức đơn giản, không mâm cỗ mà trang trọng theo đời sống mới do xã hội đảm nhiệm, như đám cưới anh Nguyễn Bá Khế - chị Nguyễn Thị Ven và anh Trần Văn Nhợi - chị Võ Thị Nhự do Nông hội đứng ra tổ chức. Đám cưới anh Nguyễn Văn Vân - chị Hoàng Thị Nhị do Hội Phụ nữ tổ chức. Tang lễ được dùng đèn sáp đưa ma cũng do xã hội đảm nhiệm. Hai đám tang của các bà Nguyễn Thị Nhận và Lê Thị Quân được tổ chức theo hình thức này. Đặc biệt những người bị địch giết hại được chính quyền tịch thu vải của bọn phú hữu và quan tài của Kiểm Phong để mai táng, như đám tang của ông Nguyễn Văn Chới bị địch bắn chết ở núi Am. Vay quan tài bà Thân để lo đám tang cho ông Võ Văn Canh... Phụ nữ được cắt tóc ngắn, mặc quần, ra đường được mang theo vũ khí như dao, liềm phòng thân. Mọi sự xích mích trong quan hệ cuộc sống được các tổ chức Hội đứng ra dàn xếp.

Chính quyền Xô viết Hòa Quân thông qua Hội tương tế vận động nhân dân, hội viên góp mỗi nhà 10 tranh tro và một nắm lạt, giúp đỡ 05 gia đình nhà cửa dột nát, như nhà ông Nguyễn Xuân Tâm, Nguyễn Hữu Viện, Nguyễn Văn Nợi, Lê Văn Kính, Nguyễn Văn Dứa. Nhà ông Nguyễn Quốc Hạ, Nguyễn Văn Đệ bị địch phá nát, Nông hội đã đứng ra vận động nhân dân góp vật liệu và ngày công làm cho mỗi nhà 02 gian khang trang hơn trước.

Chính quyền Xô viết Hòa Quân còn đề ra chủ trương vận động nhân dân ăn ở, sinh hoạt hợp vệ sinh, dời chuyển chuồng trâu bò, lợn gà ra xa nhà ở. Gia đình ông Nguyễn Xuân Thuần và ông Nguyễn Văn Phớc không tự di chuyển chuồng trại được Nông hội giúp đỡ.

Về giáo dục: Trước thực trạng 95% dân số mù chữ, chính quyền Xô viết Hòa Quân đã tổ chức các lớp học tại các nhà dân ở mỗi làng, xóm. Xã Hòa Quân tổ chức được 03 lớp học gồm lớp học xóm Trửa tại nhà ông Mận có 28 người theo học, do ông Nguyễn Bá Tuấn và anh Nguyễn Văn Tín là giáo viên; lớp học xóm Tuần tại nhà ông Nhận có 20 người theo học, giáo viên là anh Nguyễn Văn Nhị; lớp học xóm Lạng tại nhà ông Mân có 20 người theo học, giáo viên là anh Nguyễn Văn Ất. Làng Thanh Kiết tổ chức được một lớp học cho 15 người tại nhà ông Vân, anh Nguyễn Văn Kính là giáo viên.

Song song với xây dựng cuộc sống mới, chính quyền đã thuyết phục những phần tử trước đây theo địch hoặc có tư tưởng núp chờ cơ hội chống phá. Những ai từ bỏ con đường và tư tưởng sai lầm được đưa vào các tổ chức Hội để hòa nhập vào cuộc sống mới. Đồng thời chính quyền thực hiện chuyên chính với những kẻ đàn áp cách mạng, ngoan cố chống đối, làm tay sai cho thực dân.

Mặc dù tồn tại trong thời gian ngắn bởi bị kẻ địch đàn áp nhưng chính quyền Xô viết Hòa Quân và nhiều nơi khác ở Nghệ An - Hà Tĩnh đã để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp, có ý nghĩa là cuộc tổng diễn tập quần chúng cách mạng, chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám vĩ đại sau này.

Cao trào cách mạng 1930-1931 phát triển mạnh mẽ, thực dân Pháp và chính phủ Nam triều đã tìm mọi cách để đàn áp phong trào. Chúng thiết lập hệ thống bang tá từ huyện đến các làng xã gồm những tên tay sai phản động nhất từng là những cường hào, chánh quản, phó quản các đội lính khố đỏ khét tiếng gian ác đã về hưu, để chỉ huy hệ thống lính khố xanh lùng bắt cán bộ và quần chúng cách mạng. Bên cạnh hệ thống bang tá, khố xanh là hệ thống đoàn phu cũng từ huyện, tổng đến làng xã. Ở huyện có chánh, phó kiểm đoàn; ở tổng là chánh, phó kiểm tổng và ở xã là kiểm xã; ở những làng xóm nhỏ là kiểm khán... Tất cả đều do chính quyền thực dân - phong kiến chỉ định. Đoàn phu cũng do chúng lựa chọn, chỉ định. Xã nhiều thì 50, xã ít thì 20-25 đoàn phu. Trụ sở của đoàn phu là các điếm canh hoạt động suốt ngày đêm. Hệ thống đồn Tây, lính lê dương, khố xanh, bang tá, kiểm đoàn, kiểm xã, kiểm khán, đoàn phu mặc sức lùng sục đàn áp, bắt bớ, bắn giết, đốt phá khắp làng quê.

Với hệ thống kìm kẹp và lực lượng tăng cường của kẻ địch đã khiến cho phong trào cách mạng ở Hòa Quân, Thanh Khiết lắng xuống. Nhiều gia đình cách mạng phải rời quê lánh nạn, đảng viên, cán bộ và quần chúng cách mạng phải vào sâu xứ Man Tác tránh truy lùng của địch. Kẻ địch một mặt thực hiện thiết quân luật, làm thêm nhiều chòi canh, chặn bắt những cán bộ đêm về làng rải truyền đơn, tiếp nhận lương thực, mặt khác lợi dụng Hội đồng Tộc biểu để kêu gọi con cháu dòng họ, anh em thân thuộc xuất thú quy hàng. Những đảng viên, cán bộ quần chúng kiên trung tiếp tục bám trụ trong rừng, mặc cho đói khát, gian khổ vẫn băng rừng tìm cách bắt nối liên lạc với tổ chức Đảng cấp trên và liên chi bộ Anh - Thanh (Anh Sơn - Thanh Chương) vừa mới nhen nhóm nhưng đến giữa tháng 02/1932, tất cả những cán bộ đảng viên còn lại của Hòa Quân đều rơi vào tay giặc.

Trong suốt những năm đấu tranh cách mạng từ 1930 đến 1932, trên mảnh đất Hòa Quân, Thanh Khiết, Đồng Hòa có 32 cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng Hòa Quân đã anh dũng hy sinh do địch bắn chết, xử chém hoặc chết trong lao tù của đế quốc, được công nhận là Liệt sỹ 1930-1931, 15 cán bộ, đảng viên khác bị địch bắt, có 03 đồng chí bị kết án tù chung thân, còn lại bị kết án từ 02 đến 09 năm tù đày. Đồng chí Nguyễn Tư Vạn, người Bí thư Chi bộ Hòa Quân đầu tiên bị bắt và bị chúng dẫn giải về làng xử bắn nhằm răn đe những người cộng sản và quần chúng cách mạng. Có thể khẳng định rằng trong phong trào đấu tranh cách mạng 1930-1931, “Xô viết Hòa Quân đã anh dũng chiến đấu ngoan cường với giặc Pháp đến cuối cùng của huyện Thanh Chương”[17].

Những liệt sỹ 1930-1931 và những người cộng sản Hòa Quân kiên trung bị bắt giam, kết án tù là những người con ưu tú của quê hương, mãi mãi là tấm gương tiêu biểu để các thế hệ người dân Thanh Hương học tập và noi theo.

4. Quá trình chuẩn bị lực lượng và tham gia khởi nghĩa giành chính quyền (1932 - 8/1945)

Với chính sách khủng bố trắng tàn bạo, đẫm máu, đến năm 1933 thực dân Pháp và và Nam triều phong kiến đã hoàn toàn xóa bỏ chính quyền Xô viết ở các làng xã hai tỉnh Nghệ An - Hà Tĩnh, các tổ chức Đảng và cơ sở cách mạng bị tan vỡ, tổn thất nặng nề. Hàng loạt cán bộ, đảng viên cộng sản và quần chúng cách mạng bị địch giết hại và bị phạt tù.

Tính đến cuối năm 1932, trong tổng số 2.054 người của huyện Thanh Chương bị địch bắt, Thanh Hương có 15 người; 579 người toàn huyện bị kết án tù từ 01 năm đến chung thân, Thanh Hương chiếm đến 15 người, có 03 trong số 15 người bị án tù chung thân là ông Nguyễn Hữu Viện, Phan Doãn Dứa, Nguyễn Quốc Hạ; 565 người huyện Thanh Chương hy sinh do địch đàn áp, xử bắn hoặc chết trong nhà lao của đế quốc, Thanh Hương có 38 người. Chính sách khủng bố tàn bạo của kẻ địch đã chất cao thêm ngọn lửa căm thù trong quần chúng nhân dân.

Tại Hòa Quân từ sau khủng bố trắng của địch, hoài niệm về những năm tháng Xô viết Hòa Quân luôn trong lòng quần chúng nhân dân nhưng những cán bộ cách mạng phần bị chém giết, phần đang bị giam cầm nên chưa gây dựng lại được tổ chức cách mạng.

Đầu năm 1936, khi Huyện ủy Thanh Chương lâm thời được thành lập do đồng chí Nguyễn Như Cầu làm Bí thư. Cùng sự giúp đỡ của Tỉnh ủy Nghệ An, huyện Thanh Chương bây giờ gây dựng được hai chi bộ Đảng. Thực hiện nhiệm vụ của Huyện ủy lúc này là đẩy mạnh gây dựng tổ chức cơ sở Đảng, tháng 9/1936 đồng chí Phan Hữu Chín quê Võ Liệt bí mật về Hòa Quân vào chắp nối với ông Nguyễn Tư Xuyến, một cơ sở cách mạng của Hòa Quân nhưng ngay sau đó đồng chí Phan Hữu Chín bị kẻ địch tình nghi và bắt giam. Việc phục hồi tổ chức Đảng Hòa Quân bị kẻ địch chặn đứng.

Mặc dù bị khủng bố tàn khốc, nhưng cách mạng vẫn trong lòng dân. Trong lúc địch tăng cường khủng bố, tri huyện Thanh Chương sục về các làng xã khuyến dụ nhân dân “an nghiệp làm ăn...” thì ngày 18/9/1942 truyền đơn được tung ra ở Võ Liệt, Hòa Quân kêu gọi nhân dân “củng cố đoàn kết, đả phá các tệ lậu của bọn Tổng lý, đánh đổ đế quốc phong kiến; phất cao cờ khởi nghĩa, giành lại quyền lợi cho xã hội, mọi người được hưởng tự do và bình đẳng”.

Bước sang năm 1945, tình hình cả nước nói chung và tại Hòa Quân, Thanh Khiết, Đồng Hòa nói riêng rất căng thẳng. Nạn đói tràn lan, người dân chết đói, khất thực khắp nơi đã làm cho tinh thần cách mạng của nhân dân lên cao, chỉ chờ có thời cơ là vùng lên tiêu diệt kẻ thù. Tại Hòa Quân, tháng 6/1945 ông Hoàng Văn Mãi người Thanh Chữ, được Chấp ủy Việt Minh huyện phái về bắt nối liên lạc với ông Nguyễn Tư Xuyến, một cơ sở cách mạng Hòa Quân, thành lập tổ chức Thanh niên tiền tuyến, ông Nguyễn Tư Xuyến được giao nhiệm vụ làm thủ lĩnh tổ chức này.

 Tiếp đó, ông Nguyễn Tư Xuyến và một số đồng chí khác lập ra Chấp ủy Việt Minh Hòa Quân. Tại Thanh Khiết, Chấp ủy Việt Minh cũng được thành lập gồm các ông Nguyễn Văn Thư, Nguyễn Văn Tiếu và Hoàng Văn Sáu[18].

Giữa lúc Thanh Chương chuẩn bị tổ chức Đại hội Việt Minh thì nhận được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, mở ra cơ hội ngàn năm có một để giành chính quyền về tay nhân dân. Nắm bắt thời cơ này, ngày 16/8/1945, Đại hội Việt Minh huyện Thanh Chương tại Quảng Xá đã quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa các cấp.

Tại Hòa Quân, Thanh Khiết, Đồng Hòa, thực hiện chủ trương của Đại hội Việt Minh huyện về việc chuyển Chấp bộ Việt Minh cơ sở thành Ủy ban khởi nghĩa, Chấp ủy Hòa Quân được chuyển thành Ủy ban khởi nghĩa Hòa Quân, ông Nguyễn Tư Xuyến được cử làm Chủ tịch. Các ông Đậu Đình Lĩnh, Nguyễn Xuân Phớn, Nguyễn Văn Kính, bà Nguyễn Thị Hai là Ủy viên. Ủy ban khởi nghĩa xã Hòa Quân đảm nhiệm cả việc tổ chức khởi nghĩa ở làng Đồng Hòa. Chấp bộ Việt Minh làng Thanh Khiết chuyển thành Ủy ban khởi nghĩa, do ông Nguyễn Văn Thư làm Chủ tịch[19]

Ngày 23/8/1945 theo lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc ở cơ sở vận động nhân dân mang giáo mác, gậy gộc, dương cao cờ đỏ sao vàng tiến vào huyện đường, tri huyện Nguyễn Chương chờ sẵn, ngoan ngoãn nộp con dấu, đầu hàng cách mạng. Trưa ngày 23/8/1945, ông Nguyễn Côn thay mặt Việt Minh tuyên bố xóa bỏ chính quyền tay sai thân Nhật, thành lập Chính phủ cách mạng lâm thời huyện gồm 09 ủy viên do ông Nguyễn Côn làm Chủ tịch.

 Tại Hòa Quân, Thanh Khiết, Đồng Hòa thực hiện chỉ thị của huyện, Ủy ban khởi nghĩa Hòa Quân, Thanh Khiết kêu gọi nhân dân tham gia cuộc biểu tình vào sáng 23/8/1945. Thực hiện kế hoạch của Chính phủ cách mạng lâm thời huyện Thanh Chương, suốt từ ngày 24 đến 27/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa Hòa Quân gấp rút xúc tiến tổ chức lực lượng cướp chính quyền. Đội tự vệ tập hợp những trai tráng khỏe mạnh sắm gậy gộc, kiếm, đao tập luyện quân sự sẵn sàng chờ lệnh để hành động. Đêm 27/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa Hòa Quân, Thanh Khiết triển khai cho lực lượng tự vệ chốt chặn mọi ngả đường, bao vây nhà lý trưởng, nhà của các ủy viên Hội đồng Ngũ hương Hòa Quân. Sáng 28/8/1945, theo kế hoạch chuẩn bị từ trước, khi tiếng trống Hòa Quân nổi lên, Nhân dân kéo về đình làng, cờ đỏ sao vàng rực rỡ. Đội tự vệ dẫn giải lý trưởng và các ủy viên hội đồng ngũ hương đến trước nhân dân. Lý trưởng Đậu Đình Huỳnh thay mặt bộ máy cai trị Hòa Quân cảm ơn cách mạng và ngoan ngoãn giao triện đồng, sổ sách, tài liệu, tiền bạc cho Ủy ban khởi nghĩa. Ông Đậu Đình Lĩnh thay mặt Ủy ban khởi nghĩa đọc lời tuyên thệ trước nhân dân và kêu gọi toàn dân thi hành mọi nhiệm vụ của Ủy ban khởi nghĩa. Nhân dân Hòa Quân hô vang khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập muôn năm”, “Hồ Chủ tịch muôn năm”. Theo lệnh của Ủy ban khởi nghĩa, nhân dân ta dương cao cờ đỏ sao vàng, trống chiêng vang dậy, tuần hành khắp làng xóm. Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hòa Quân diễn ra mau lẹ, an toàn.

Đồng thời với Hòa Quân, sáng sớm 28/8/1945 tại làng Thanh Khiết, Ủy ban khởi nghĩa tổ chức nhân dân kéo đến nhà Lý trưởng Nguyễn Văn Hiền nhận bàn giao toàn bộ sổ sách, triện đồng. Ông Nguyễn Văn Thư thay mặt Ủy ban khởi nghĩa Thanh Khiết tuyên bố chính quyền đã về tay nhân dân, việc quản lý xã hội làng Thanh Khiết từ đây thuộc về Ủy ban khởi nghĩa.

Làng Đồng Hòa trước đó, Lý trưởng Đinh Xuân Yêm run sợ trước sự đầu hàng của Tri phủ Nguyễn Chương và sức mạnh không gì ngăn cản nổi của cách mạng, nên đã mang toàn bộ sổ sách, tiền bạc, triện đồng lên nộp cho Chánh tổng Võ Liệt, do đó đã không còn sự điều hành của chính quyền phong kiến.

Như vậy, đến ngày 28/8/1945, chính quyền các làng xã ở Hòa Quân, Thanh Khiết, Đồng Hòa đã hoàn toàn thuộc về nhân dân.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Hòa Quân, Thanh Khiết, Đồng Hòa đã cùng nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An và nhân dân cả nước nổi dậy đập tan bộ máy chính quyền thực dân phong kiến, thành lập nên chính quyền cách mạng của nhân dân. Thắng lợi ấy là kết quả quá trình đấu tranh bền bỉ của nhân dân ta. Nó được đổi bằng xương máu của bao thế hệ kế tiếp nhau chiến đấu. Đó là thắng lợi của tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí căm thù giặc của nhân dân và dân tộc Việt Nam ta, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đội quân tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam kiên cường, biết tạo thời cơ, nắm bắt thời cơ, phát động quần chúng đứng lên phá tan gông cùm nô lệ.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 có ý nghĩa vô cùng to lớn: xóa bỏ chế độ phong kiến ngàn đời, xóa bỏ chế độ thực dân - phong kiến gần 100 năm, đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của độc lập tự do, Nhân dân ta từ địa vị nô lệ, lầm than trở thành người làm chủ đất nước.

III. TỔ CHỨC ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN XÂY DỰNG, CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG VÀ THAM GIA KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (8/1945 - 4/1954)

1. Lãnh đạo xây dựng chính quyền cách mạng dân chủ nhân dân (8/1945 - 12/1946)

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bắt đầu chế độ mới, một thời đại mới trong lịch sử dân tộc. Một niềm vui mừng phấn khởi tràn ngập non sông đất nước ta, những con người Việt Nam nô lệ đã thành con người tự do, làm chủ chính mình, làm chủ quê hương, đất nước.

Đối với Nhân dân các làng Hòa Quân, Đồng Hòa, Thanh Khiết, cách mạng thành công, người dân lên làm chủ quê hương, ai cũng háo hức phấn khởi. Dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đảng cấp trên nhân dân bắt tay vào giải quyết các nhiệm vụ cấp bách trước mắt đó là chống giặc đói, giặc dốt, thi đua lập thành tích để chào mừng ngày Tổng tuyển cử đầu tiên trong cả nước, tích cực chuẩn bị để chống giặc ngoại xâm.

Về chống giặc đói: Ngay sau khi giành được chính quyền, xã kêu gọi nhân dân thực hiện khẩu hiệu “Tấc đất tấc vàng”, biến đất hoang, bãi đồng, rục, cồn... thành đất nông nghiệp để trồng rau màu, lúa, ngô, khoai, sắn. Đồng thời kêu gọi nhân dân tương thân tương ái, giúp đỡ nhau với tinh thần “một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Tiếp đó, xã thực hiện các sắc lệnh, nghị định của Chính phủ xoá bỏ các thứ thuế do chính quyền thực dân Pháp và triều đình phong kiến đặt ra; vận động các chủ ruộng, chủ nợ tạm hoãn thu tô, thu nợ lãi cho người dân, đem các loại ruộng đất công (công điền) của làng xã chia cho những gia đình thiếu ruộng đất canh tác để họ có điều kiện cải thiện cuộc sống. Đi đôi với tăng gia sản xuất, nhân dân còn hưởng ứng tích cực phong trào thực hành tiết kiệm của Đảng và Chính phủ. Phong trào “Hũ gạo tiết kiệm” được thực hiện triệt để. Gạo được dùng để cứu giúp những gia đình bị đói và ủng hộ đồng bào Bắc bộ bị thiệt hại nghiêm trọng do bão lũ. Cùng với đó chính quyền còn cho làm mương dẫn nước vào ruộng, tát nước chống hạn cho lúa, công tác bảo vệ được thực hiện tốt. Thanh niên là lực lượng hăng hái nhất trong việc thực hiện chủ trương này. Kết quả, vụ chiêm năm 1945, toàn xã được mùa, nhu cầu lương thực của nhân dân dần được giải quyết và nạn đói từng bước được đẩy lùi. Bà con hăng say lao động sản xuất và tin tưởng vào chế độ mới.

Sau Cách mạng tháng Tám, 95% dân số mù chữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động cuộc chiến diệt giặc dốt. Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ, đầu tháng 11/1945, Cấp ủy Việt Minh các làng Hòa Quân, Đồng Hòa, Thanh Khiết, sau này là xã Đồng Thanh đã phối hợp với Ủy ban hành chính xã thống nhất cử những người có trình độ văn hóa, thông thạo chữ quốc ngữ đảm nhiệm việc dạy học tại các lớp bình dân học vụ. Với truyền thống hiếu học, Ban vận động bình dân học vụ từ xã đến các thôn xóm được thành lập. Tiêu biểu có cụ Tứ Huya ở làng Đồng Du, dù đã cao tuổi nhưng vẫn chống gậy trong đêm đi đến tận từng gia đình vận động đi học bình dân. Trên tinh thần người biết chữ dạy cho người không biết chữ, các lớp học quốc ngữ được tổ chức khắp mọi thôn xóm, cụm gia đình. Từ nam nữ thanh niên đến ông già bà lão, trẻ em đều hăng hái học chữ quốc ngữ. Thời gian học là buổi trưa, buổi tối. Ngoài học ở lớp, mọi người học hỏi nhau khi đi làm, đi chợ, lúc ngồi nấu ăn, đi chăn trâu, cắt cỏ. Cán bộ, đảng viên vừa là thầy, vừa là học sinh, vừa là người lãnh đạo, tổ chức các lớp học. Cùng với việc động viên tinh thần tự giác, Ban bình dân học vụ còn áp dụng cả phương pháp cưỡng bức như: tổ chức các trạm kiểm tra giữa đường, ở cổng chợ; ai đánh vần được chữ quốc ngữ thì cho qua, ai không biết buộc phải ở lại học thuộc một vài chữ rồi mới được đi tiếp. Nhờ đó, trình độ dân trí được nâng lên rõ rệt, nhiều cán bộ đã đọc thông, viết thạo, đảm nhiệm tốt công việc được giao.

Từ việc nâng cao dân trí, dẫn đến sự giác ngộ về chính trị, mở mang về văn hóa trong nhân dân. Những quan điểm, nhận thức và tập quán lạc hậu của chế độ thực dân, phong kiến bị xoá bỏ, tạo điều kiện cho công cuộc kiến thiết xã hội mới, cuộc sống mới. Các hủ tục mê tín dị đoan, rượu chè, cờ bạc, tướng số… bị phê phán, công kích và dần được loại trừ. Khẩu hiệu “nam nữ bình quyền” được thực hiện bước đầu. Mọi người dân đều thắt chặt mỗi đoàn kết, dồn tâm lực và khả năng đóng góp vào công cuộc kiến thiết quốc gia, bảo vệ nền độc lập của nước nhà. Nhà cửa, đường sá được vệ sinh sạch sẽ. Mọi người tham gia tập thể dục buổi sáng để thực hiện khẩu hiệu “Khoẻ vì nước”, “Khỏe để kiến thiết quốc gia”. Trong xóm làng, mọi người sống yên ổn, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau.

Cùng với diệt giặc đói, giặc dốt, trong cuối năm 1945 đầu năm 1946, nhân dân Hòa Quân, Đồng Hòa, Thanh Khiết còn thực hiện tốt “Quỹ độc lập” và “Tuần lễ vàng” (từ ngày 17-24/9/1945). Bà con đã tự nguyện hiến tặng những tài sản có giá trị của gia đình như: mâm thau, nồi đồng, tiền đồng, thậm chí cả tài sản quý giá nhất là vàng bạc cho đất nước. Nhiều chị em tình nguyện quyên góp cả những kỷ vật như hoa tai, vòng, nhẫn cưới vào Quỹ độc lập.

Để xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng thật vững chắc, thực hiện chủ trương của Chính phủ, ngày 06/01/1946, nhân dân các làng Hòa Quân, Đồng Hòa, Thanh Khiết tham gia đi Tổng tuyển cử bầu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Từ mờ sáng, các công dân của xã từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt già trẻ, gái trai, địa vị, trong trang phục chỉnh tề tập trung tại điểm bầu cử (khu vực đình làng) bầu đại biểu vào Quốc hội. Một số người tàn tật, ốm đau hay già yếu vẫn được con cháu dìu dắt đến điểm bầu cử, những người không thể đi được, Ban bầu cử đưa hòm phiếu đến tận nhà để họ làm nghĩa vụ và quyền lợi của người công dân tự do. Cuộc bầu cử diễn ra tốt đẹp, tạo ra niềm tin tuyệt đối của nhân dân vào chế độ mới.

Ngày 24/02/1946, người dân lại tiếp tục đi bầu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và xã. Đến đầu năm 1946[20], thực hiện chủ trương của cấp trên, xã Thanh La cùng với xã Hòa Quân và các làng Thanh Khiết, làng Đồng Hòa, làng Đồng Du sáp nhập thành xã Đồng Thanh. Cuộc vận động thành lập xã tại 05 đơn vị hành chính diễn ra gay gắt giữa các đoàn đại biểu. Trong việc đặt tên cho xã mới, làng xã nào cũng muốn có tên mình. Tên xã Đồng - Thanh - Hoa được lựa chọn, đạt được thống nhất, sau nhiều tranh luận nhưng lại không đúng chỉ đạo của cấp trên là tên xã chỉ có hai từ. Cuối cùng tất cả đều chấp nhận xã mới mang tên Đồng Thanh với ý nghĩa nhân văn: “Đồng thanh tương khí, đồng chí tương cầu”. Việc phân chia đại biểu cũng nhiều ý kiến khác nhau vì địa phương nào cũng muốn giành phần cho mình. Cuối cùng đạt được sự phân chia hợp lý. Trong số 25 đại biểu Hội đồng thì 10 đại biểu cho Thanh La, 08 đại biểu cho Hòa Quân, 06 cho Đồng Du, 01 cho Thanh Khiết. Đồng Hòa dân số ít và là làng dân góp của các làng, lại chuyên nghề rừng nên không phân đại biểu nào. Việc sáp nhập ruộng đất công điền, công thổ cũng diễn ra tư tưởng cục bộ đối với địa phương nhiều ruộng công, tự ti sợ lép vế đối với địa phương ít ruộng đất nhưng cuối cùng đều đạt sự thống nhất, vì tất cả đều thuộc về nhân dân

Cùng với củng cố, xây dựng chính quyền cơ sở, tổ chức Đảng cũng từng bước được kiện toàn. Chi bộ Đảng xã Đồng Thanh thành lập, đồng chí Nguyễn Đức Tu được bầu làm Bí thư.

Sau khi đã ổn định bộ máy chính quyền, thực hiện chủ trương của Đảng, đặc biệt từ khi tổ chức Đảng được thành lập, các cán bộ, đảng viên của xã được tập trung học tập chính trị và nghiệp vụ cùng với các xã khác trong huyện. Qua đợt học tập, đảng viên nâng cao được nhận thức về chính trị, quyền dân chủ của nhân dân; từng bước khắc phục tác phong, lề lối làm việc quan cách của chính quyền cũ, ý thức phục vụ nhân dân ngày càng được nâng cao, mọi người đều rèn luyện cho mình cách thức làm việc hiệu quả, sát thực tế. Mọi hoạt động ở xã Đồng Thanh từ đây đi vào nề nếp, ổn định, góp phần thúc đẩy công cuộc xây dựng một chế độ mới tốt đẹp hơn; đồng thời, cũng chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới đầy cam go và phức tạp phía trước.

Với dã tâm thống trị nước ta một lần nữa, ngày 23/9/1945, thực dân Pháp được sự hậu thuẫn của quân Anh đã nổ súng xâm lược nước ta bằng việc gây hấn ở Sài Gòn. Thực hiện lời kêu gọi của Đảng, Bác Hồ, Nhân dân ta lại bước vào cuộc kháng chiến mới để bảo vệ nền độc lập của nước nhà. Cũng thời gian này trên địa bàn xã có nhiều công binh xưởng của quân đội đóng như Nhà máy Nhiệt điện và Lò cao ở rú Chùa; xưởng Kinh tế 1 ở vùng Đoài ngoại; xưởng Lê Viết Thuật ở Nậu Bắc; xưởng Quân giới Quân khu IV ở vùng Hòa Quân.

Như vậy, chỉ trong thời gian ngắn, xã Đồng Thanh đã vượt qua những khó khăn, cam go của đất nước, đạt được nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tổ chức Đảng được củng cố, chính quyền các cấp, các tổ chức đoàn thể được xây dựng; xã thực hiện thành công các nhiệm vụ chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm.

2. Lãnh đạo Nhân dân tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (12/1946 - 4/1954)

Thực dân Pháp mở rộng chiến tranh ra cả nước, thực hiện chủ trương của cấp trên, toàn bộ xã Đồng Thanh bước vào thời kỳ chiến tranh vệ quốc. Với địa hình của xã là vừa có sông, có núi, nhân dân lại có truyền thống đấu tranh cách mạng, nên đây là điểm đến lý tưởng cho các cơ quan tổ chức của Nhà nước. Nhất là các đơn vị có tính bí mật cao như các công xưởng chế tạo vũ khí; các cuộc hội nghị, đại hội quan trọng.

Thực hiện chủ trương của cấp trên, xã Đồng Thanh bước vào cuộc chiến với tinh thần quyết chiến, quyết thắng. Các chủ trương của cấp trên được chi bộ, chính quyền, đoàn thể và nhân dân thực hiện tốt như phong trào “Tiêu thổ để kháng chiến”; phong trào mua “Công phiếu kháng chiến”. Trong đó, thực hiện phương châm: “Vườn không nhà trống”, xã Đồng Thanh đã vận động nhân dân phá dỡ những công trình kiên cố mà thực dân Pháp có thể lợi dụng để đóng đồn; tại các ngã ba, ngã tư trong xã đều được đắp ụ chiến đấu, dựng các chướng ngại vật để cản bước tiến của địch. Một thế trận mới được dựng lên sẵn sàng chiến đấu khi giặc đến. Phong trào “Rèn cán, chỉnh quân”, “Luyện quân lập công”, các buổi luyện tập tác chiến (đánh trận giả) diễn ra thường xuyên. Bà con hết lòng nuôi dưỡng dân quân luyện tập và trực chiến. Lúc này, toàn xã Đồng Thanh xây dựng được một đại đội dân quân du kích (120 người) do Xã đội trưởng chỉ huy.

Đối với chủ trương mua công phiếu kháng chiến, vào tháng 7/1947, xã phát động và được nhân dân hưởng ứng mua với số tiền 8.000 đồng. Tiếp đó, thực hiện chủ trương của Hội đồng Chính phủ về việc mua thóc để khao quân, xã lại vận động và được nhân dân hưởng ứng mua 150 tạ thóc nộp cho Nhà nước.

Chiến tranh mở rộng, các đơn vị sản xuất vũ khí được di tản về các nơi an toàn, bí mật để sản xuất. Lúc này, trên xã Đồng Thanh có đặt xưởng quân giới của Liên khu IV. Khi về đây, quân đội đã lấy đền Hàm Rồng ở Hòa Quân làm nơi đặt xưởng quân giới sản xuất vũ khí phục vụ các mặt trận. Nhưng một sự cố đã xẩy ra vào ngày 15/7/1947, làm 08 chiến sỹ quân giới hy sinh.

Đi đôi với phục vụ kháng chiến, các hoạt động văn hóa, xã hội diễn ra sôi nổi. Đối với giáo dục, các trường đã thu hút hầu hết các em từ 07 tuổi trở lên đến lớp. Một số cán bộ xóm thôn cũng tham gia lớp học này. Trường Tiểu học được mở ở Hòa Quân, Công Văn, Nậu Bắc. Các trường ở Hòa Quân, Công Văn chỉ có lớp 1. Trường ở Nậu Bắc có đến lớp 4 lớp 5. Các lớp học vỡ lòng mở ở khắp nơi. Chương trình dạy và học của trường theo chương trình của ngành giáo dục. Lúc này, xã Đồng Thanh là một trong 03 xã dẫn đầu huyện Thanh Chương về phong trào phát triển giáo dục trong kháng chiến.

Đối với công tác xây dựng Đảng, trong những năm 1947, 1948 tình hình Chi bộ Đồng Thanh mất đoàn kết, để giải quyết vấn đề này, Huyện ủy quyết định điều động một số đồng chí thoát ly bổ sung cho các cơ quan khác. Đồng thời, giao cho đồng chí Nguyễn Văn Tiếu đang là Ủy viên Thư ký xã làm quyền Bí thư Chi bộ để xúc tiến công tác chuẩn bị Đại hội Chi bộ xã. 

Đầu năm 1949, tại nhà đồng chí Nguyễn Tư Xuyến (Hòa Quân), đã diễn ra Đại hội Chi bộ xã Đồng Thanh[21]. Đại hội đánh giá lại những thành tựu và hạn chế trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thời gian qua. Trong đó nhấn mạnh, với tinh thần đoàn kết chiến đấu, xã Đồng Thanh tuy mới được thành lập những đã thực hiện tốt các phong trào do cấp trên đề ra, đảm bảo tốt tình hình an ninh chính trị trên địa bàn; tổ chức tốt các địa điểm cho các đơn vị về hoạt động trên địa bàn xã; văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có nhiều hạn chế như một số cán bộ vẫn chưa xông xáo; chi bộ còn mất đoàn kết; kinh tế có nhiều trì trệ… Từ đó, Đại hội đề ra nhiệm vụ chung cho thời gian tới đó là: dốc sức phục vụ cho cuộc kháng chiến; hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao; đảm bảo an toàn bí mật cho các đơn vị đóng trên địa bàn; đoàn kết cao trong nội bộ Đảng, chính quyền và nhân dân. Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 07 đồng chí, đồng chí Nguyễn Văn Tiếu được bầu làm Bí thư Chi bộ.

Sau Đại hội, thực hiện chủ trương thi đua xây dựng chi bộ “Chủ động công tác”, đến tháng 4/1949, Đồng Thanh là một trong 08 chi bộ trong toàn huyện đạt tiêu chuẩn chi bộ “Chủ động công tác”. Đây là một trong những thành tích đáng ghi nhận của tổ chức Đảng xã Đồng Thanh. Bởi trước đó, Chi bộ xã Đồng Thanh bị đánh giá là một trong những chi bộ yếu, nhất là mất đoàn kết trong nội bộ. Với thành tích này, Chi bộ xã Đồng Thanh được cử đại diện ngồi ghế danh dự trong các cuộc sơ, tổng kết của huyện Thanh Chương.

Với các lợi thế về điều kiện tự nhiên, tinh thần cách mạng, Đồng Thanh luôn là nơi được các cấp chọn làm nơi diễn ra các hội nghị quan trọng. Ngày 10/9/1949, tại đình Hòa Quân đã diễn ra Hội nghị đại biểu Đảng bộ huyện Thanh Chương. Chi bộ đã tập trung lãnh đạo quân và dân Đồng Thanh tham gia bảo đảm an toàn tuyệt đối cho cuộc hội nghị.

Ngày 15/9/1949, xã Đồng Thanh tổ chức bầu cử Hội đồng nhân xã khóa 2. Thực hiện chủ trương mở rộng thành phần liên hiệp đoàn kết với các tầng lớp nhân dân trí - phú - địa - hào của Đảng và chỉ đạo của cấp trên, thành phần Hội đồng nhân dân và Ủy ban kháng chiến hành chính xã Đồng Thanh được mở rộng. Hội đồng nhân dân xã bầu 07 ủy viên Ủy ban. Ông Nguyễn Văn Thao (là Hương bộ của chế độ cũ) được bầu làm Chủ tịch Ủy ban xã. Ông Nguyễn Văn Dợng được bầu làm Phó Chủ tịch xã. Ông Nguyễn Văn Tiếu làm Ủy viên Thư ký. Đảng đoàn chính quyền xã Đồng Thanh được thành lập gồm các ông Nguyễn Văn Dợng, Nguyễn Văn Tiếu, Trần Đình Thiều. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp chuyển sang giai đoạn phản công, ông Nguyễn Văn Dợng được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính xã, ông Nguyễn Văn Thao chuyển sang làm Chủ tịch Liên hiệp Quốc dân Việt Nam xã Đồng Thanh (gọi tắt là Mặt trận Liên Việt). Ông Nguyễn Văn Tiếu được bầu làm Bí thư Chi bộ xã, ông Đậu Đình Lĩnh làm Chủ nhiệm Việt Minh xã. 

Thực hiện kế hoạch chuẩn bị cho Đảng ra hoạt động công khai, việc kết nạp đảng viên được tiến hành cởi mở, không còn sự thận trọng, dè dặt như trước nữa. Huyện chia chỉ tiêu cho các chi bộ xã, chi bộ lại chia chỉ tiêu cho các tổ Đảng. Chi bộ xã Đồng Thanh giao chỉ tiêu mỗi đảng viên trong một tháng phải giới thiệu một người vào Đảng. Vì thế, chỉ trong 02 năm 1949-1950, Chi bộ Đồng Thanh đã kết nạp rất đông đảng viên. Tổng số đảng viên của chi bộ là 150 đồng chí (năm 1948 mới có 17 đồng chí), đạt 120% chỉ tiêu của huyện giao. Tháng 02/1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng tuyên bố đưa Đảng ra hoạt động công khai, đổi tên Đảng thành Đảng Lao động Việt Nam.

Sau Đại hội Đảng toàn quốc, vào ngày 14 đến 21/5/1951, Liên Khu ủy khu IV tổ chức Đại hội với sự tham gia của 170 đại biểu từ các tỉnh Thừa Thiên Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An và Thanh Hóa. Đại hội diễn ra tại đình Hòa Quân. Về tham dự và chỉ đạo đại hội có đồng chí Hoàng Anh và đồng chí Hồ Viết Thắng là các Ủy viên Trung ương Đảng. Sau khi phân tích, đánh giá tình hình, Đại hội đã đề ra nhiệm vụ chiến lược cho vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh và nhiệm vụ cách mạng của vùng địch tạm chiếm Bình - Trị  - Thiên đó là: “Tiếp tục xây dựng lực lượng quân sự, tiêu diệt sinh lực địch, đồng thời bảo toàn lực lượng ta”; “Đẩy mạnh sản xuất, đặc biệt là sản xuất lương thực, đảm bảo cung cấp cho tiền tuyến và cải thiện dân sinh… Đại hội bầu đồng chí Hoàng Anh làm Bí thư Liên Khu ủy, đồng chí Lê Viết Lượng làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính Liên khu, đồng chí Lê Nam Thắng làm Tư lệnh và đồng chí Võ Thúc Đồng làm Chính ủy Liên khu, đồng chí Chu Văn Biên làm Phó Bí thư Liên Khu ủy trực tiếp làm Bí thư Đảng ủy Mặt trận Bình Trị Thiên, đồng chí Trần Quý Hai làm Tư lệnh, đồng chí Lê Tự Đồng làm Phó Chính ủy Mặt trận[22].

Ngoài chuẩn bị địa điểm, công tác bảo vệ an toàn cho Đại hội được đặt lên hàng đầu. Trung đội du kích xã Đồng Thanh do đồng chí Trần Văn Trình, Ủy viên Thường vụ, Xã đội trưởng trực tiếp chỉ huy đã tổ chức đào hàng trăm mét hào giao thông, 500 hố ẩn nấp cá nhân quanh đình Hòa Quân và các nhà dân có đại biểu tạm trú, trồng hàng ngàn cây chuối ngụy trang đề phòng máy bay địch phát hiện đánh phá. Hai trạm gác phòng không được đặt trên đỉnh Rú Lôông và đỉnh Sừng Bò để phát hiện máy bay địch. Ba trạm gác mặt đất đặt tại Đồng Du, Ba Bến, Hàm Rồng để kiểm soát những người lạ mặt. Phần lớn đảng viên và quần chúng được huy động để phục vụ công tác hậu cần và giao thông liên lạc. Đồng chí Nguyễn Văn Tiếu, Bí thư Chi bộ xã được vinh dự làm đại biểu khách mời dự thính, đọc lời chúc mừng tại Đại hội. Thành công của đại hội có sự đóng góp to lớn của chi bộ và nhân dân xã Đồng Thanh. Kết thúc Đại hội, đội du kích và bộ phận phục vụ được ban tổ chức đại hội khen thưởng.

Trên mặt trận sản xuất, chi bộ Đảng và chính quyền xã Đồng Thanh vận động nhân dân đẩy mạnh tăng gia sản xuất, khai hoang phục hóa, huy động nguồn lực đắp 02 con đê ở Nậu Nam và Nậu Bắc, đẩy mạnh công tác làm thủy lợi. Di chuyển nhà dân từ vùng thấp ngập lụt lên các sườn đồi; vận động nhân dân đi khai hoang ở Bãi Vai, Đồng Hòa, Tân Lập, Vực Su, Bãi Đường. Chủ trương này đã tạo thêm 100 ha đất màu mỡ để sản xuất và tạo nên những vùng dân cư làng trại mới. Ngoài ra, từng hộ gia đình tận dụng đất vườn đắp ụ trồng khoai, sân phơi làm nơi gieo mạ. Xã tổ chức các trại sản xuất chăn nuôi ở Bãi Vai, Vụng Lấm.

Đồng thời với việc phát triển sản xuất, xã đã vận động các điền chủ giảm tô, giảm tức, xóa nợ cho tá điền. Kết quả, các điền chủ đã giảm tô đến mức thấp nhất, nông dân rất phấn khởi. Tuy nhiên, lợi dụng chủ trương hiến điền, nhiều địa chủ đã tranh thủ bán ruộng đất để thu tiền. Trước tình hình đó, xã bắt địa chủ bán ruộng cho tá điền với giá rẻ. Tuy nhiên việc làm này là vi phạm nguyên tắc kinh tế của Đảng, Huyện ủy kiểm tra kết luận xã Đồng Thanh mắc mưu phân tán ruộng đất của địa chủ, tập thể chi ủy bị kỷ luật với hình thức cảnh cáo.

Đi đôi với tăng gia sản xuất, khai hoang phục hóa, nhân dân Đồng Thanh còn tích cực hưởng ứng phong trào thực hành tiết kiệm. Noi gương Hồ Chủ tịch và thực hiện lời kêu gọi của Người, xã đã vận động toàn dân mỗi người nhịn ăn một bữa và mỗi ngày bớt một nắm gạo bỏ vào “hũ gạo tiết kiệm” để cứu giúp những gia đình bị thiếu đói.

Đối với công tác tổ chức cán bộ, năm 1951 ông Nguyễn Văn Dợng được cấp trên điều động về công tác tại Phủ Quỳ, ông Nguyễn Văn Tiếu được điều động về cơ quan Huyện ủy Thanh Chương, Hội đồng nhân xã bầu ông Nguyễn Hữu Viện làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính xã Đồng Thanh. Chi bộ xã Đồng Thanh bầu ông Trần Đình Giáp làm Bí thư (1951-1954)[23]. Năm 1952, Huyện ủy biệt phái ông Nguyễn Văn Tiếu về lại Đồng Thanh, Hội đồng nhân dân xã bầu ông làm Phó Chủ tịch xã.

Sau vụ việc thực dân Pháp tiến đánh vùng Quỳnh Lưu, thực hiện chỉ đạo của cấp trên, Đồng Thanh được giao nhiệm vụ đặc biệt phối hợp với quân đội, xây dựng chiến khu Hòa Quân bí mật tại Rào Lang, Man Tác nhằm chuẩn bị cho cuộc chiến tranh mở rộng. Lực lượng xây dựng chiến khu bí mật gồm một đại đội bộ đội địa phương, chỉ huy đơn vị đóng tại nhà ông Nguyễn Tư Xuyến cùng 20 người do xã Đồng Thanh lựa chọn để xây dựng nhà cửa. Trong thời gian ngắn đã xây dựng 50 gian nhà bằng gỗ, tranh, tre, nứa, lá. Là chiến khu bí mật nên lực lượng xây dựng chiến khu thoát ly trong 6 tháng, người dân hoàn toàn không hay biết công việc xây dựng chiến khu này. Duy nhất chỉ đồng chí Bí thư Chi bộ xã được vào ra chiến khu để bàn bạc công việc xây dựng và tiếp tế hậu cần. Sau khi xây dựng xong, chiến khu giao lại cho bộ đội quản lý, bảo vệ.

Năm 1953, xã Đồng Thanh bị máy bay địch đánh phá, ném bom ở khu vực Đập Đá làm nhiều người dân ở Nậu Đông (lên sơ tán) bị thương vong. Tháng 4/1953, thực hiện chủ trương của cấp trên, xã Đồng Thanh cử một đại đội dân công hỏa tuyến tham gia phục vụ chiến dịch Thượng Lào.

Sự phát triển của văn hóa, giáo dục đã góp phần thúc đẩy phong trào thi đua xây dựng nếp sống mới. Nhân dân tự nguyện góp công, góp của tu sửa đường làng ngõ xóm. Các công trình phúc lợi bước đầu được xây dựng. Những khu dân cư sinh sống xa sông được xây giếng nước công cộng như giếng 49 ở Đồng Du, giếng Nậu Đoài, Nậu Bắc, Nậu Nam… Trong các thôn xóm, mọi người sống đoàn kết, gần gũi với nhau trên tinh thần nhân ái, sẵn sàng giúp đỡ khi có khó khăn. Hầu hết các gia đình đều làm nhà vệ sinh, làm chuồng nuôi súc vật. Hàng tuần, trong các thôn xóm đều có ngày “tổng vệ sinh” quét dọn đường làng ngõ xóm sạch đẹp.

Để đưa thông tin đến tận mọi người dân, các làng xóm đều có các chòi phát thanh, các bảng tin được dựng lên ở những nơi công cộng. Các thông báo, tin tức về tình hình chiến sự trong nước, thế giới được cập nhật và chuyển tải đến người dân qua hệ thống chòi phát thanh và bảng tin cơ sở. Những ngày kỷ niệm lịch sử, các ngày hội lớn, các đoàn thể phát động viết báo tường, báo liếp. Băng cờ khẩu hiệu phục vụ công tác tuyên truyền bằng gỗ, bằng vải, bằng nong nia chăng dựng các ngõ xóm, nhà dân. Các chòi phát thanh ngoài thông báo tin tức còn xen kẽ những bài hát, hò, vè nên thu hút người nghe rất đông.

Thực hiện phong trào thực hành tiết kiệm, hũ gạo tiết kiệm, quỹ kháng chiến, nhân dân xã Đồng Thanh đã tham gia rất nhiệt tình. Bình quân mỗi tháng xã thu được 800 kg gạo và 40.000 đồng để gửi cho tiền tuyến. Trong phong trào hiến điền, xã Đồng Thanh đã hiến 83 mẫu ruộng. Đặc biệt, năm 1951 thực hiện chủ trương mua “Công trái kháng chiến”, mua “Công trái quốc gia” bằng thóc, Đồng Thanh đã triển khai mua vượt chỉ tiêu trên giao. Trong đó có bà Cửu Mại ở Đồng Du mua công phiếu hạng D, mệnh giá 01 vạn đồng, được xã tổ chức rước cờ tặng của trên về tận nhà để ghi công.

Đồng Thanh còn là nơi đón nhận các cơ quan kinh tế, quốc phòng sơ tán. Nhân dân Đồng Thanh đã nhường nhà, đất vườn cho các cơ quan, xưởng quân giới đóng quân, mở công xưởng sản xuất, như xưởng Lê Viết Thuật về đóng ở Nậu Bắc từ những năm 1950, xưởng có 02 vùng, một là ở Đò Vịnh, hai là ở vùng Bến Cồn. Xưởng có một tổ máy phát điện để phục vụ cho các phân xưởng sản xuất, chế tạo vũ khí như súng ba-zo-ka; lựu đạn…; xưởng Kinh tế 1 đóng ở rú Chùa (Đồng Du, Nậu Đoài) do ông Võ Quý Huân, Võ Quý Hi chỉ huy để luyện thép, luyện gang; xưởng quân giới sản xuất vũ khí ở Hòa Quân; Kho quân nhu, quân khí ở Công Văn; trường đào tạo cán bộ ở Nậu Nam; ở làng Đồng Du có xưởng chế biến ca-rếp (cao su); có xưởng nấu dầu chổi (dầu chổi Rành) ở rú Đền… Những gia đình có nhà rộng rãi hơn đều có cán bộ, bộ đội ở. Gia đình bà Cửu Triên có 04 người hoạt động cách mạng, bị tù đày là một gia đình gương mẫu, luôn nuôi cán bộ ăn ở trong nhà. Gia đình bà Toán ở Công Văn nhường gian nhà làm kho quân trang, quân nhu. Suốt 09 năm kháng chiến, kho hàng hóa được gia đình bảo vệ an toàn.

 

Chương III

CHI BỘ ĐẢNG XÃ THANH HƯƠNG THÀNH LẬP, LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THAM GIA KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ KHÔI PHỤC,

CẢI TẠO KINH TẾ, BƯỚC ĐẦU XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

(4/1954 - 1964)

 

I. CHI BỘ ĐẢNG XÃ THANH HƯƠNG THÀNH LẬP, LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THAM GIA KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ KHÔI PHỤC KINH TẾ - XÃ HỘI (4/1954 - 1955)

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Nhân dân ta bước vào giai đoạn quyết liệt. Để huy động nguồn lực cho cuộc tổng phản công, đồng thời để phù hợp với năng lực, trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ ở cơ sở. Thực hiện chủ trương của cấp trên, ngày 20/4/1954, xã Đồng Thanh được chia thành hai xã là Thanh Lĩnh và Thanh Hương. Xã Thanh Lĩnh có địa dư là xã Thanh La cũ, còn xã Thanh Hương bao gồm phần đất của các thôn là Hòa Quân, Đồng Du và Thanh Khiết.

Sau khi được chia tách, huyện đã chỉ định chính quyền lâm thời xã Thanh Hương do ông Nguyễn Tư Liên làm Chủ tịch Ủy ban xã. Đối với chi bộ Đảng, đồng chí Đinh Hữu Tường được chỉ định làm Bí thư Chi bộ. Đồng thời các tổ chức đoàn thể cũng được hình thành và chỉ định nhân sự lâm thời. Giai đoạn này trụ sở của xã đóng ở cồn Đội Cung.

Được thành lập trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang bước vào giai đoạn gay go nhất. Để lãnh đạo tốt công tác kháng chiến kiến quốc, được sự đồng ý của Huyện ủy, Chi bộ xã Thanh Hương tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 1954-1956[24] vào giữa tháng 5/1954[25]. Đại hội đề ra nhiệm vụ trước mắt là phải ổn định tình hình trong toàn xã; sớm kiện toàn bộ máy chính quyền; tổ chức phân chia và bầu nhân sự các xóm; chú trọng phát triển kinh tế; làm tốt công tác văn hóa - xã hội; đảm bảo quốc phòng, an ninh trên địa bàn. Đại hội bầu chi ủy có 05 đồng chí, đồng chí Đinh Hữu Tường được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Tư Liên được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền.

Xã Thanh Hương ra đời trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn gay go nhất. Cuộc chiến ở Điện Biên Phủ bước vào giai đoạn quyết liệt. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, xã Thanh Hương đã hăng hái bước vào tiếp tục thực hiện công cuộc kháng chiến kiến quốc.

Sau 56 ngày đêm chiến đấu anh dũng, gian khổ, hi sinh, ngày 07/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ, đỉnh cao của cuộc tấn công chiến lược Đông - Xuân toàn thắng. Lá cờ quyết chiến, quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng đã tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch. Điện Biên Phủ, nỗ lực cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ ở Đông Dương hoàn toàn thất bại. Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, kết thúc gần 100 năm xâm lược và thống trị nước ta (1858-1954) của thực dân Pháp. Ngày 07/5/1954 trở thành một mốc son lịch sử của dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh chống ngoại xâm. Cùng với đồng bào cả nước, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân xã Thanh Hương tràn ngập trong niềm vui chiến thắng. Mọi người đều tự hào vì trong thắng lợi chung ấy có một phần công sức, mồ hôi, xương máu và cả nước mắt của mình.

Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Thanh Hương có hàng trăm người tham gia quân đội, dân công hỏa tuyến phục vụ các chiến trường Tây Bắc, Phú Thọ, Trung Lào, Bình Trị Thiên và hàng trăm người tham gia lực lượng dân quân tự vệ, thanh niên xung phong. Toàn xã có 60 liệt sĩ, hàng chục thương binh, 44 lão thành cách mạng và cán bộ tiền khởi nghĩa, 20 người bị địch bắt, tù đày. Địa bàn xã là nơi diễn ra nhiều hội nghị quan trọng của huyện, của tỉnh và của Liên khu IV; là nơi có nhiều cơ quan của Nhà nước, quân đội đóng quân. Những thành tích ấy càng thôi thúc cán bộ, đảng viên và Nhân dân Thanh Hương quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong xây dựng và bảo vệ quê hương ở những giai đoạn sau này.

Chiến tranh vừa kết thúc, thiên tai lại ấp đến, từ ngày 23 đến 25/9/1954, mưa lớn, nước dâng lên nhanh chóng, gây ngập lụt. Trước tình hình đó, Chi bộ Đảng xã đã lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiều biện pháp cấp bách để cứu hộ, khắc phục hậu quả do lụt gây ra. Thực hiện khẩu hiệu Cứu đói như cứu hoả, Nước rút đến đâu trồng rau màu đến đó, một phong trào sản xuất sôi nổi, rầm rộ được tổ chức trong toàn xã. Sau lụt, ngô, bầu, bí, đậu, rau... được trồng ở khắp nơi. Nhờ thời tiết thuận lợi, lại có phù sa do trận lụt để lại nên rau màu nhìn chung phát triển nhanh. Cùng với phong trào tăng gia sản xuất, nhân dân còn phát huy tinh thần nhường cơm sẻ áo, đoàn kết giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn đói kém, vừa tự cứu mình vừa giúp đỡ các vùng khác còn khó khăn hơn. Chính nhờ những biện pháp đó nên trong một thời gian ngắn đã khắc phục được những hậu quả do lũ lụt gây ra.

Song song với việc ổn định đời sống, Chi bộ Đảng đã tập trung chỉ đạo thực hiện cải cách ruộng đất, tiếp tục hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

II. HOÀN THÀNH CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT VÀ KHÔI PHỤC KINH TẾ (1955 - 1960)

1. Xã Thanh Hương thực hiện cải cách ruộng đất (1955 - 1957)

Sau thắng lợi giảm tô, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II), đề ra chủ trương căn bản hoàn thành cải cách ruộng đất trước tháng 7/1956. Thực hiện chủ trương của cấp trên, đoàn cải cách ruộng đất đã về trực tiếp chỉ đạo thực hiện tại xã Thanh Hương. Trong quá trình tiến hành, đoàn đã tuyên truyền, giáo dục, chủ trương đường lối cải cách ruộng đất của Đảng và Nhà nước đối với giai cấp nông dân, những người lao động mà bao đời nay sống ở nông thôn không có ruộng cày, là người làm nên thắng lợi của cách mạng, đem lại độc lập, tự do cho đất nước. Khẩu hiệu “Người cày có ruộng” là nguỵên vọng và ước mơ ngàn đời nay của người nông dân.

Cùng với cả huyện, cả tỉnh, công cuộc cải cách ruộng đất ở xã Thanh Hương thu được thắng lợi lớn như giai cấp địa chủ căn bản bị đánh đổ, ruộng đất về tay nông dân, nông dân lao động đã trở thành người làm chủ, chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất đã vĩnh viễn bị xoá bỏ, từ đó hăng hái ra sức thi đua sản xuất.

Đồng thời với việc thực hiện công cuộc cải cách ruộng đất, cấp ủy Đảng cũng đẩy mạnh phát triển kinh tế. Xã phát động nhân dân tăng gia, sản xuất cây vụ đông chống đói giáp hạt và chuẩn bị các điều kiện để tiến hành sản xuất theo chế độ tập thể. Một số công trình thủy lợi như mương máng, đập tràn được làm để đảm bảo nguồn nước phục vụ cho sản xuất. Các diện tích đất bỏ hoang được xã giao cho người dân để khai hoang biến thành đất sản xuất. Thông qua cải cách ruộng đất, người dân được làm chủ ruộng đất nên rất phấn khởi trong việc đầu tư công sức để sản xuất.

Cấp ủy, chính quyền địa phương luôn chú trọng công tác xây dựng và phát triển văn hóa - xã hội. Trường lớp được xã vận động nhân dân làm mới, dù còn tạm bợ nhưng bước đầu đã có chỗ dạy học cho giáo viên và học sinh. Bên cạnh đó, các đoàn thể còn tích cực vận động con em đến trường học. Tích cực nhất đó là hội phụ nữ, các chị đã vận động các bà, các mẹ cho con em tới trường. Đồng thời còn vận động các hội viên tham gia học bình dân để xóa mù chữ.

Các hoạt động văn nghệ, thể dục, thể thao như bóng đá, bóng chuyền được tổ chức đã dấy lên một phong trào văn hóa mới ở địa phương.

Việc chăm lo sức khỏe cho nhân dân cũng được chú ý, mặc dù đội ngũ cán bộ y tế còn thiếu, cơ sở vật chất còn thiếu thốn nhưng các y sỹ, hộ sinh đã tích cực vận động người dân tham gia các phong trào vệ sinh phòng bệnh để đảm bảo sức khỏe như ăn chín uống sôi, sạch làng tốt ruộng…

Lực lượng dân quân được cũng cố, tổ chức huấn luyện nâng cao nhận thức về chính trị, khả năng chiến đấu, đảm báo công tác bảo vệ cấp ủy, chính quyền và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ các thành quả cách mạng đã giành được.

Công tác an ninh được tăng cường. Nhiệm vụ đặt ra cho lực lượng công an phối hợp chặt chẽ với các tổ chức, ban, ngành nắm chắc tình hình, tăng cường tuyên truyền vận động nhân dân yên tâm làm ăn không tin kẻ xấu, phân hóa đối tượng.

Chi bộ tổ chức quán triệt Nghị quyết hội nghị lần thứ 10 (mở rộng) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II), Đoàn uỷ cải cách ruộng đất cùng Chi bộ Đảng xã Thanh Hương tiến hành chủ trương sửa chữa những sai lầm trong cải cách ruộng đất. Đồng thời đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; chăm lo công tác cán bộ; thường xuyên kiểm tra, giám sát kịp thời uốn nắn các hạn chế, khuyết điểm, những nhận thức lệch lạc trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ, giữ vững bản lĩnh chính trị, lập trường giai cấp... Thường xuyên vận động cán bộ, đảng viên và nhân dân xây dựng khối đoàn kết nhất trị quyết tâm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị đã đề ra.

Bên cạnh những thành tích đã đạt được, trên thực tế, tại xã Thanh Hương cũng như nhiều địa phương khác trong huyện, trong tỉnh vẫn còn có nhiều hạn chế, sai lầm thiếu sót, nhất là trong cải cách ruộng đất.

2. Đảng bộ xã Thanh Hương thành lập, lãnh đạo nhân dân thực hiện khôi phục và cải tạo kinh tế, bước đầu phát triển văn hóa - giáo dục (1958 - 1960)

Để tiếp tục làm tốt công tác sửa sai và lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, vào tháng 2 năm 1957, chi ủy tổ chức Đại hội Chi bộ nhiệm kỳ 1957-1960 tại Hòa Quân với sự tham dự của 28 đảng viên trong toàn xã.

Đại hội đã đánh giá sau 02 năm chia tách, thành lập, Chi bộ đã từng bước củng cố tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể. Đồng thời thực hiện tốt cuộc cải cách ruộng đất, đưa ruộng đất về cho nông dân. Các lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục có bước khởi sắc, trường học được xây dựng đảm bảo việc dạy và học cho con em trong xã. Quốc phòng, an ninh trên địa bàn được giữ vững. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền và Mặt trận và các đoàn thể có nhiều chuyển biến tích cực. Bên cạnh đó, xã cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát triển kinh tế, do thiếu công cụ sản xuất, thời tiết diễn biến thất thường…

Đại hội đã nghiêm túc kiểm điểm về những hạn chế, khuyết điểm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của chi ủy, chi bộ trong nhiệm kỳ qua. Năng lực lãnh đạo của cán bộ còn nhiều hạn chế, đặc biệt thiếu phương pháp trong cải cách ruộng đất; còn để hiện tượng bất hòa, căng thẳng trong nhân dân, công tác vận động quần chúng còn hạn chế.

Đại hội đã đề ra phương hướng cho nhiệm kỳ tới đó là: Xây dựng các tổ hợp tác giúp nhau trong sản xuất; nâng cao đời sống cho nhân dân, củng cố công tác y tế, văn hóa, giáo dục, tăng cường an ninh, quốc phòng; xây dựng, củng cố chính quyền, mặt trận và các đoàn thể vững mạnh. Chú trọng công tác vận động quần chúng, xây dựng khối đoàn kết, tập trung xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 05 đồng chí, đồng chí Đinh Hữu Tường được bầu làm Bí thư, đồng chí Đậu Đình Lĩnh được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền. Tháng 3/1958, đồng chí Nguyễn Văn Sỹ được bầu làm Bí thư Chi bộ; đồng chí Nguyễn Văn Nhuận được bầu làm Trực Đảng. Từ tháng 3/1959 đồng chí Đinh Văn Nhoàn được bầu làm Bí thư Chi bộ; đồng chí Nguyễn Văn Sỹ được bầu làm Chủ tịch Uỷ ban hành chính xã; đồng chí Đinh Hữu Tường được bầu làm Trực Đảng.

Thực hiện nghị quyết của đại hội chi bộ, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, xã Thanh Hương đã giành được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực.

Lĩnh vực kinh tế: Năm 1957 là năm cuối cùng của thời kỳ khôi phục kinh tế, Chi bộ đã chỉ đạo đẩy mạnh khai hoang, phục hóa mở rộng diện tích gieo trồng, khắc phục thời tiết không thuận lợi, thú rừng phá hoại ở một số vùng, thiếu trâu, bò cày bừa… áp dụng kỹ thuật mới vào canh tác, đồng thời xây dựng một số tuyến mương thủy lợi, kết hợp với làm đường giao thông để phục vụ cho sản xuất nhờ đó mà năng suất và sản lượng vượt kế hoạch đề ra.

Chăn nuôi gia súc, gia cầm được chú trọng, các hộ gia đình đã chú ý đến nguồn thức ăn cho trâu bò, tình trạng thả rông đã giảm xuống… Với sự n lực cố gắng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã nên Thanh Hương đã hoàn thành các chỉ tiêu sản xuất. Cơ bản các diện tích trồng lạc, ngô, khoai sắn, các loại đậu đều đạt chỉ tiêu. Các loại hình ngành nghề bắt đầu hình thành trên địa bàn như làm mộc, rèn, xây dựng…

Sau cải cách ruộng đất, dưới sự lãnh đạo của Chi bộ, nhân dân lại bắt tay vào xây dựng các tổ đổi công, vần công để giúp nhau trong sản xuất. Trong thời gian ngắn, toàn xã đã hình thành được hàng chục tổ đổi công. Tổ ít có từ 05 đến 07 hộ; tổ nhiều có từ 15 đến 20 hộ. Các tổ đổi công, vần công ra đời đã tạo ra những lợi thế trong sản xuất như mùa vụ làm nhanh hơn, đồng đều hơn. Các công việc diễn ra có trật tự, giảm được nhiều chi phí khác.

Sau khi xây dựng thành công các tổ đổi công, vần công, vào cuối năm 1958, đầu năm 1959, xã Thanh Hương lại bắt tay vào xây dựng hợp tác xã nông nghiệp. Quán triệt Nghị quyết tại hội nghị 14 (tháng 11/1958) của Trung ương Đảng, Chi bộ xã Thanh Hương tổ chức học tập trong Đảng và trong nhân dân về mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp tiến hành xây dựng Hợp tác xã Nông nghiệp nhằm đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể và cải tạo tiểu thương, tiểu chủ. 

Hợp tác xã nông nghiệp mới ra đời mặc dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng đã góp phần đưa người nông dân đi vào làm ăn tập thể, đời sống nhân dân dần được cải thiện hơn so với trước.

Cùng với sự ra đời của các hợp tác xã nông nghiệp, Hợp tác xã Tín dụng cũng được xây dựng trên cơ sở đóng góp cổ phần của nhân dân. Hợp tác xã Tín dụng do ông Nguyễn Văn Nghị làm Chủ nhiệm, ông Đậu Đình Kiên làm Kế toán đã giải quyết một số nhu cầu về vốn cho xã viên trong quá trình sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt; tạo tiền đề cơ bản thúc đẩy nhân dân mạnh dạn đầu tư làm giàu, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần.

Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân từng bước đi vào ổn định nên việc nộp thuế cho Nhà nước cũng được hoàn thành. Đây là một thắng lợi lớn trong công các lãnh đạo, chỉ đạo của chi bộ và chính quyền xã.

Lĩnh vực văn hóa - xã hội: Hoạt động văn hóa, văn nghệ, giai đoạn này rất sôi nổi. Tuy đời sống của người dân chưa cao nhưng trên mặt trận văn hóa, xã hội xã nhà đã tổ chức các hình thức sinh hoạt văn hóa và mua sách báo về cho nhân dân đọc. Các phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao được tổ chức sôi nỗi thu hút đông đảo quần chúng tham gia….

Là địa phương còn gặp nhiều khó khăn, nên việc học tập chưa được chú trọng, vì thế tỷ lệ người mù chữ còn cao. Thực hiện chủ trương của tỉnh, phong trào thanh toán nạn mù chữ tại xã Thanh Hương trở nên sôi nổi. Các giáo viên bình dân học vụ không quản ngày đêm đi vào từng ngõ, gõ từng nhà, vận động học viên đến lớp để dạy cho dân biết chữ. Đồng thời với phong trào diệt dốt, phong trào học vỡ lòng được quan tâm phát triển, Ủy ban hành chính xã đã đầu tư ngân sách xây dựng 02 lớp học cho học sinh v lòng.

Về y tế: Thực hiện chủ trương của huyện, trạm y tế được thành lập, xã đã cử một số chị em đi học các lớp y sỹ, hộ sinh để về phục vụ tại địa phương. Đồng thời nhân dân các xóm tự nguyện góp tiền để xây dựng tủ thuốc nông thôn. Phong trào “Phòng bệnh hơn chữa bệnh” phát triển mạnh mẽ, từ đó các dịch bệnh được đẩy lùi.

Chăm lo, quan tâm tới các gia đình chính sách, đồng bào tập kết được cấp ủy Đảng, chính quyền, các đoàn thể chú trọng. Các gia đình tập kết được hỗ trợ bước đầu về công cụ, giống, ruộng đất để sản xuất, ổn định cuộc sống. Gia đình chính sách vào các ngày lễ, tết được xã tặng quà, tới thăm hỏi động viên.

Lĩnh vực quốc phòng, an ninh trên địa bàn xã luôn được chú trọng. Lực lượng dân quân được xây dựng đảm bảo số lượng, tổ chức huấn luyện chính trị, quân sự vững chắc, luôn sẵn sàng làm nhiệm vụ khi được điều động, ngoài ra còn tham gia các công tác tại địa phương như làm thủy lợi, giao thông… Xã làm tốt công tác tuyển quân, hàng năm giao quân đảm bảo kế hoạch và chất lượng.

Lực lượng công an xã đã làm tốt công tác quan lý nhân khẩu, hộ khẩu, người đi, đến… để đảm bảo trật tự an toàn trên địa bàn. Tập trung xử lý tốt các vụ việc gây mất an ninh trật tự trên địa bàn, bảo vệ tài sản, tính mạng của tập thể và của nhân dân.

Công tác xây dựng Đảng: Chi bộ đã tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng nâng cao nhận thức chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, quán triệt và thực hiện tốt các chỉ thị của Tỉnh ủy Nghệ An.

Thực hiện chủ trương của cấp trên, xã đã tổ chức đợt sinh hoạt chính trị từ tháng 3 đến tháng 5/1958. Đợt sinh hoạt đã tạo tiền đề tư tưởng cho công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế trên địa bàn mà trọng tâm là xoá bỏ hình thức chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của giai cấp địa chủ, phong kiến, đưa nông dân và người lao động từ địa vị làm thuê trở thành người lao động trong các tổ đổi công, hợp tác xã nông nghiệp và các hợp tác xã ngành nghề khác.

Sau khi căn bản hoàn thành hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế - xã hội, ngày 16/4/1958, Quộc hội khoá I, kỳ họp thứ 8 thông qua nghị quyết quan trọng: Xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam. Thực hiện chủ trương của cấp trên, Huyện uỷ đã chỉ đạo các chi uỷ triển khai đợt chỉnh huấn đảng viên. Đợt chỉnh huấn sinh hoạt chính trị tập trung thảo luận nội dung “Hai con đường”, “Ai thắng ai” giữa con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Qua đợt sinh hoạt chính trị “Hai con đường” Chi bộ Đảng, cán bộ, đảng viên và quần chúng đã tập trung thảo luận, phân tích, so sánh liên hệ giữa cuộc sống trong xã hội cũ và cuộc sống trong xã hội mới, thấy rõ hơn bản chất của “Hai con đường” khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là tất yếu khách quan.

Công tác tổ chức và đảng viên, sau đợt chỉnh huấn, chi uỷ đã vạch kế hoạch chỉ đạo xây dựng, củng cố hợp tác xã, sáp nhập các hợp tác xã nhỏ lại thành hợp tác xã vừa theo từng vùng. Để h trợ cho phong trào xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất, phục vụ đời sống nhân dân. Chi uỷ xã tiếp tục chỉ đạo xây dựng củng cố hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng, vận động xã viên vào hợp tác xã.

Nhân dịp kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng (06/01/1930-06/01/1960)[26], thực hiện Chỉ thị số 169-CT/TW ngày 06/11/1959 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc tổ chức đợt kết nạp đảng viên “Lớp 6-1”, nhằm “tăng cường Đảng về mặt tổ chức, tăng thêm lực lượng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nhằm hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Đảng, đồng thời tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng về Đảng, củng cố tổ chức Đảng thêm một bước, củng cố lập trường tư tưởng, nâng cao giác ngộ và những hiểu biết về Đảng, cho cán bộ, đảng viên…”. Thông qua đợt sinh hoạt chính trị, chỉnh huấn đợt II, học tập các Nghị quyết 14, 15, 16 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, học tập Chỉ thị 169 của Ban Bí thư, Chi bộ xã đã giáo dục, bồi dưỡng và kết nạp được 10 đảng viên mới.

Công tác kiểm tra được thực hiện nghiêm túc theo kế hoạch toàn khóa và hàng năm, cấp ủy đã tiến hành kiểm tra việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ của chính quyền, các ban, ngành đoàn thể, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của đảng viên, kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh những hạn chế, khuyết điểm tập trung xây dựng chi bộ vững mạnh…

Công tác dân vận: Chi bộ tập trung vào lãnh đạo đó là giải quyết các mỗi bất hòa trong nhân dân, trong nội bộ thôn xóm, từng bước ổn định tình hình, mọi sinh hoạt trở lại bình thường. Sự đoàn kết và uy tín trong Đảng được khôi phục. Mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng được củng cố, các phong trào thi đua yêu nước được phát động sâu rộng, được nhân dân đồng tình hưởng ứng tích cực và có hiệu quả…

Chặng đường từ 1954-1960 tuy không dài song có ý nghĩa quan trọng đối với công tác lãnh đạo của Chi bộ Đảng và con đường phát triển đi lên của xã nhà. Bởi đây là những năm đầu xã Thanh Hương cùng miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội giữa những bộn bề khó khăn. Vượt lên tất cả những khó khăn đó, bằng những phong trào cách mạng rộng lớn, bằng niềm tin và sự ủng hộ của nhân dân, Chi bộ đã lãnh đạo thực hiện thành công những nhiệm vụ quan trọng.

Đầu năm 1960, thực hiện quyết định của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Thanh Chương, Chi bộ Đảng xã Thanh Hương được nâng lên thành Đảng bộ. Huyện ủy chỉ định Ban Chấp hành lâm thời xã Thanh Hương gồm 07 đồng chí. Đồng chí Võ Văn Đường làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Nguyễn Văn Sỹ làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền; đồng chí Đinh Hữu Tường làm Trực Đảng. Đảng ủy lâm thời tiến hành củng cố lại bộ máy cấp ủy, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể từ xã đến các thôn, nâng cấp các tổ đảng lên thành chi bộ. Đảng bộ được thành lập có ý nghĩa rất quan trọng đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng ở địa phương. Điều nay đã khẳng định sự phát triển lớn mạnh của tổ chức Đảng ở xã Thanh Hương, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng mới ở trên địa bàn.

Bước vào thực hiện nhiệm vụ mới với quyết tâm chính trị cao, Đảng bộ tập trung chỉ đạo các hoạt động trên tất cả các lĩnh vực một cách đồng bộ. Bên cạnh đó làm tốt công tác chuẩn bị tiến tới đại hội Đảng bộ lần thứ nhất.

Thực hiện kế hoạch Đại hội Đảng bộ cấp cơ sở của Huyện ủy Thanh Chương, tháng 3/1960, Đảng ủy xã Thanh Hương tổ chức Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 1960-1963 tại Hợp tác xã Hương Hòa với sự tham gia của 54 đảng viên.

Đại hội khẳng định: Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, Đảng bộ và sự đồng lòng, đồng sức của nhân dân nhiệm kỳ qua đã đạt được nhiều kết quả trên các lĩnh vực.

Về kinh tế - xã hội: Đã hoàn thành việc tổ chức các hợp tác xã đảm bảo cơ chế vận hành trong sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh công tác chăn nuôi, các loại hình hợp tác xã mua bán, tín dụng và mốt số ngành nghề khác được thành lập góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển; công tác giáo dục được quan tâm đúng mới, huy động trên 90% con em đến trường ở các bậc học vỡ lòng, cấp 1; đẩy mạnh các phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thể thao; trạm y tế làm tốt công tác khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân; công tác chính sách xã hội được quan tâm.

Về an ninh, quốc phòng: Lực lượng dân quân, ban công an được củng cố đảm bảo thực thi tốt nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.

Công tác xây dựng Đảng: Chi bộ, Đảng bộ đã làm tốt công tác chính trị tư tưởng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Bên cạnh đó đại hội cũng nghiêm túc kiểm điểm trong quá trình lãnh đạo còn có một số khuyết điểm cần tập trung khắc phục như, công tác vận động nhân dân vào hợp tác xã còn chưa đạt kế hoạch đề ra; năng suất, sản lượng lương thực đạt thấp; các hoạt động văn hóa - xã hội chưa đồng đều; năng lực của một bộ phận cán bộ từ xã đến thôn còn hạn chế.

Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ cho nhiệm kỳ mới đó là: Ra sức củng cố phong trào hợp tác hóa, tiếp tục hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp và tiểu thương. Đẩy mạnh việc phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, trọng tâm là phát triển sản xuất nông nghiệp vượt bậc và toàn diện, chủ yếu là lúa và hoa màu, đồng thời chú trọng cây công nghiệp, chăn nuôi, phát triển nghề phụ để không ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân. Củng cố quốc phòng, an ninh trên địa bàn, không ngừng nâng cao cảnh giác cách mạng, ra sức củng cố chính quyền dân chủ nhân dân chuyên chính, đoàn kết mọi tầng lớp để xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc. Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nhất là về công tác tư tưởng và tổ chức.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 09 đồng chí, đồng chí Võ Văn Đường được bầu làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Nguyễn Văn Sỹ được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Bá Soạn được bầu làm Trực Đảng. Tháng 3/1962 đồng chí Nguyễn Văn Sỹ được bầu làm Bí thư; đồng chí Võ Văn Đường được bầu làm Chủ tịch Ủy ban hành chính xã; đồng chí Nguyễn Văn Huyên được bầu làm Trực Đảng.

III. LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC 5 NĂM LẦN THỨ NHẤT (1961 - 1964)

Sau đại hội, Đảng bộ tập trung chỉ đạo thực hiện nghị quyết của đại hội với tinh thần “Phất cờ Đại Phong đẩy mạnh Đông - Xuân, tiến quân 6 tốt[27]” nhằm đưa vụ Đông - Xuân (1962-1963) đạt toàn diện về trồng trọt, chăn nuôi, cải tiến kỹ thuật, làm thuỷ lợi mạnh, đạt năng suất lao động cao, tổ chức tốt đời sống nhân dân.

Để đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trong lao động sản xuất lên một tầm cao mới, tháng 6/1962, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Nghệ An phát động phong trào thi đua học tập và tiến kịp “Đại phong” trong nông nghiệp, “Duyên Hải” trong công nghiệp, “Thành công” trong thủ công nghiệp, “Bắc Lý” trong giáo dục và phong trào “Ba nhất” trong lực lượng vũ trang[28]. Thực hiện chủ trương của cấp trên, xã Thanh Hương đã giành được nhiều kết quả trên các lĩnh vực.

Lĩnh vực kinh tế: Đối với sản xuất, Đảng uỷ đã chỉ đạo đẩy mạnh phong trào thi đua trong các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, trong các tổ chức đoàn thể như Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ… mục tiêu là tập trung tăng năng suất trên toàn bộ diện tích cây trồng, củng cố diện tích đã có, mở rộng thêm diện tích trồng sắn, trồng khoai, ngô, bảo đảm giải quyết lương thực, đồng thời phát triển cây công nghiệp ngắn ngày, đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, trâu, bò, lợn, gia cầm, khai thác gỗ để tăng thu nhập.

Để đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ, vững chắc và từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị và chủ trương của Thường vụ Tỉnh uỷ Nghệ An về triển khai cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật trong nông nghiệp.

Để thực hiện chủ trương của cấp trên, xã Thanh Hương chọn Hợp tác xã Hòa Bình làm điểm để triển khai. Qua cuộc vận động nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân được nâng lên một bước, đảng viên đã thể hiện được vai trò tiên phong, gương mẫu trong công tác và sinh hoạt. Tình hình từ chối không nhận nhiệm vụ do cấp uỷ phân công không còn nữa, thái độ cửa quyền, tư lợi cá nhân giảm hẳn. Công tác quản lý lao động, quản lý tài vụ có nhiều cải tiến, bước đầu thực hiện đúng chế độ, đảm bảo nguyên tắc, việc xây dựng phương hướng sản xuất hàng năm đã bám sát được tình hình thực tế của địa phương, đưa đến sản xuất phát triển đúng hướng. Vì thế, trong năm 1963, xã Thanh Hương cùng các xã trong huyện tiến hành cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, củng cố đưa hợp tác xã lên bậc cao. Xã Thanh Hương đã sáp nhập các hợp tác xã bậc thấp thành các hợp tác xã bậc cao như:

Hợp tác xã Thanh Am sáp nhập với Hợp tác xã Thanh Trì thành Hợp tác xã Thắng Lợi do ông Nguyễn Văn Bích làm Chủ nhiệm, ông Nguyễn Xuân Nhuyện làm Phó Chủ nhiệm.

Hợp tác xã Thanh Sơn sáp nhập với Hợp tác xã Thanh Tuyền thành Hợp tác xã Quyết Tiến do ông Lê Bá Khai làm Chủ nhiệm, ông Nguyễn Văn Lợi làm Phó Chủ nhiệm.

Sau khi căn bản hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp, dưới sự chỉ đạo của huyện, phong trào thi đua lao động sản xuất ở Thanh Hương càng được đẩy mạnh. Tổng diện tích gieo trồng đạt trên 90%, tổng sản lượng lương thực quy thóc trên 300 tấn. Về chăn nuôi, bình quân mỗi hộ gia đình có 01 con lợn, các hợp tác xã đã có trại chăn nuôi trâu bò tập thể. Cuối nhiệm kỳ đã hoàn thành được nghĩa vụ Nhà nước. Các đội Sơn Tràng đã khai thác được trên 1.000 m3 gỗ phục vụ cho sản xuất đời sống.

Cuộc vận động cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật thực sự trở thành đòn bẩy, để đẩy mạnh sản xuất, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, đã có tác động sâu sắc trong mọi lĩnh vực hoạt động sản xuất của hợp tác xã, làm dấy lên một không khí thi đua cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật… sâu rộng trong các ban quản trị hợp tác xã. Để nâng cao ý thức tinh thần trách nhiệm, năng lực sản xuất, quản lý trong các cơ quan hành chính, xí nghiệp, công trường, nông trường…

Công tác chăn nuôi: Đẩy mạnh việc chăn nuôi tập trung ở trại chăn nuôi và phát động các hội xã viên nhận nuôi lợn, trâu bò cho hợp tác xã tạo nên phong trào sâu rộng trong toàn xã. Trong nhiệm kỳ tổng đàn trâu, bò đã tăng lên 500 con, đàn lợn 650 con, đàn gia cầm trên 2.000 con.

Hợp tác xã Mua bán xây dựng 02 cửa hàng kịp thời mua bán, trao đổi hàng hóa phục vụ nhân dân trên địa bàn. Các mặt hàng được nhập về như muối, dầu hỏa và các vật tư phục vụ cho sản xuất.

Hợp tác xã Tín dụng đã tập trung và công tác huy động nguồn vốn từ tiền gửi tiết kiệm của xã viên cuối nhiệm kỳ số dư nợ đạt khoảng 2.500 đồng. Bên cạnh đó, hợp tác xã cũng đã làm tốt công tác cho vay đáp ứng nhu cầu sản xuất của xã viên.

Các ngành nghề cũng được phát triển như mộc, nề, rèn… Các tổ nghề được bước đầu hình thành ở trong các hợp tác xã, thu hút nhiều người tham gia.

Xây dựng cơ bản, có bước tiến mới, các tuyến đường giao thông, mương thủy lợi, các nhà kho hợp tác xã được xây dựng. Vào năm 1962, Đảng ủy xã có chủ trương xây dựng các công trình thủy lợi. Được sự đồng tình cao của nhân dân, năm 1963 đã khởi công được một số công trình thủy lợi như tràn, đập... Bằng sức người, phương tiện thủ công, thô sơ, với hàng ngàn ngày công bằng sức dân, trâu, bò để thi công. Đồng thời xã cũng vận động nhân dân hoàn thành khoảng 3 km kênh mương phục vụ cho việc lấy nước tưới tiêu và 2 km đường đất nội đồng phục vụ sản xuất. Tất cả đều được làm bằng thủ công và sức người là chính.

Lĩnh vực văn hóa - xã hội: Các phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao được phát triển mạnh mẽ. Xã đã xây dựng các đội thông tin, tuyên truyền làm tốt công tác tuyên truyền các chính sách, chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước cũng như quy định của địa phương đến với nhân dân. Các tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc, mê tín, dị đoan bị lên án và từng bước được đẩy lùi. Kịp thời nêu gương người tốt, việc tốt tạo sức lan tỏa…, đời sống người dân được nâng lên cả về vật chất và tinh thần.

Lĩnh vực giáo dục đào tạo, được chính quyền và nhân dân quan tâm. Hàng năm xã đã tập trung nguồn lực để tu sửa, làm mới một số phòng học đảm bảo đủ chỗ học tập cho học sinh. Lúc này, mỗi hợp tác xã có 01 lớp mẫu giáo, xã có 01 trường cấp 1 với 05 lớp. Hàng năm số học sinh tới trường đạt trên 90%. Chất lượng dạy và học của thầy và trò các trường đã được nâng lên, số lượng học sinh tiên tiến năm sau cao hơn năm trước.

Về y tế: Trạm y tế xã có 04 cán bộ với 03 giường bệnh. Dù còn nhiều thiếu thốn về nhân lực và cơ sở vật chất nhưng đã làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân. Đội ngũ cán bộ y tế đã được bố trí tận các hợp tác xã. Mỗi hợp tác xã có một tủ thuốc có thể đảm bảo sơ cấp cứu tại chỗ cho bệnh nhân trước khi chuyển lên tuyến trên. Xã đã kết hợp được giữa phong trào sản xuất nông nghiệp ở nông thôn với phong trào vệ sinh sạch làng, tốt ruộng nên trong thôn xóm được giữ gìn sạch sẽ.

Công tác chính sách xã hội: Các gia đình thương binh, liệt sỹ, các gia đình có công với cách mạng, cá gia đình già cả, neo đơn được quan tâm, các chế độ chính sách xã hội thực hiện tốt. Xã cũng đã làm tốt công tác hậu phương, quân đội…

Lĩnh vực quốc phòng, an ninh: Quốc phòng, tập trung xây dựng lực lượng, làm tốt công tác huấn luyện dân quân vững mạnh về chính trị và nghiệp vụ quân sự, xây dựng lực lượng vững chắc từ xã đến thôn, được biên chế thành 02 trung đội. Công tác tuyển quân được xã thực hiện tốt kế hoạch giao quân hàng năm đều đạt chỉ tiêu, trong nhiệm kỳ đã có 22 thanh niên lên đường làm nhiệm vụ.

Lực lượng Công an được củng cố, kiện toàn, làm tốt công tác tuần tra, kiểm soát an ninh trên địa bàn, tăng cường công tác quản lý hộ khẩu, bảo mật, trừ gian. Thường xuyên tuyên truyền để nhân dân nâng cao cảnh giác cách mạng, phát hiện những kẻ xấu xâm nhập địa bàn. Trong nhiệm kỳ, Ban công an đã xử lý 05 vụ việc trộm cắp tài sản của Nhà nước và nhân dân, xử lý 05 đối tượng.

Công tác xây dựng Đảng: Công tác chính trị tư tưởng được chú trọng, các chỉ thị, nghị quyết được tổ chức học tập, triển khai thực hiện nghiêm túc. Qua đợt học tập, quán triệt 04 nội dung xây dựng Chi bộ, Đảng bộ “4 tốt”, học tập Điều lệ Đảng có 99% đảng viên tham gia học tập. Nhận thức về Đảng được nâng lên, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, tăng thêm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà.

Công tác tổ chức và đảng viên được củng cố, kiện toàn. Tổ chức thực hiện cuộc vận động xây dựng Chi bộ 4 tốt, toàn Đảng bộ quyết tâm khắc phục mọi khó khăn vươn lên xây dựng chi bộ, Đảng bộ vững mạnh. Việc đấu tranh tự phê bình và phê bình trong chi bộ để nâng cao phẩm chất chính trị cho đội ngũ đảng viên, nâng cao vai trò lãnh đạo của chi bộ chống các biểu hiện bảo thủ, trì trệ, lạc hậu, tiêu cực… Trong nhiệm kỳ đã kết nạp được 11 đảng viên đạt 90% chỉ tiêu đề ra. Đảng bộ được Huyện ủy xếp hạng Hoàn thành tốt nhiệm vụ, trong nhiệm kỳ đã cử 05 đồng chí đi học tập để nâng cao trình độ.

Đối với công tác kiểm tra, giám sát: Đảng ủy đã xây dựng kế hoạch kiểm tra cụ thể trên từng lĩnh vực, tập trung kiểm tra việc triển khai nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, chi bộ, đồng thời kiểm tra các dấu hiệu vi phạm kỷ luật Đảng, giữ nghiêm kỷ luật Đảng. Trong nhiệm kỳ đã tiến hành được 15 cuộc kiểm tra, xử lý một số chi bộ và cá nhân đảng viên.

Công tác dân vận: Luôn được Đảng ủy chăm lo. Đảng ủy thường xuyên nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân về xây dựng hợp tác, về hình thức làm ăn tập thể xã hội chủ nghĩa, động viên bà con tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước.

Nhìn chung, trong nhiệm kỳ này, Đảng bộ đã làm tốt công tác tư tưởng, tổ chức, kiện toàn bộ máy chính quyền, các đoàn thể, nhất là sau bầu cử Hội đồng nhân dân. Đội ngũ lãnh đạo của các hợp tác xã sau khi sáp nhập đã thể hiện được vai trò của mình trong việc chỉ đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế mà đại hội đã đề ra, các hoạt động của cấp ủy, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể từ xã đến thôn đã đi vào nề nếp, hiệu lực, hiệu quả quản lý xã hội được nâng lên, bộ mặt nông thôn được đổi mới.

Thực hiện kế hoạch Đại hội Đảng bộ cấp cơ sở của Huyện ủy Thanh Chương, tháng 3/1963, Đảng ủy xã Thanh Hương tổ chức Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 1963-1964, tại Hợp tác xã Thắng Lợi, với sự tham gia của 76 đảng viên.

Đại hội đã phân tích đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ trong nhiệm kỳ vừa qua: Về ưu điểm, phong trào cách mạng được củng cố, xây dựng hợp tác xã đã có nhiều chuyển biến. Các hợp tác xã đã xây dựng được kế hoạch sản xuất, kế hoạch tài vụ, thực hiện được 3 khoán, 3 quản trong nông nghiệp, đã từng bước nâng cao được ý thức làm chủ hợp tác xã của xã viên, xã viên đã hăng hái lao động sản xuất hết sức mình. Hợp tác xã Tín dụng hoạt động đúng hướng có hiệu quả cao, đã tích cực huy động vốn cho vay phục vụ nhu cầu sản xuất của hợp tác xã, xã viên nông nghiệp. Hợp tác xã Mua bán đã liên kết, giao thương với hợp tác xã mua bán huyện, tìm nguồn hàng phục vụ nhu cầu đời sống sinh hoạt hằng ngày của nhân dân khá tốt. Phong trào thi đua “Học tập, đuổi kịp và vượt Đại Phong” được tiếp tục đẩy mạnh.

Về khuyết điểm, Đại hội cũng nghiêm túc kiểm điểm, phong trào các hợp tác xã phát triển chưa đều, chưa mạnh, đặc biệt là từ mỗi đội sản xuất, ý thức làm chủ hợp tác xã của một bộ phận xã viên chưa cao, còn có biểu hiện tư tưởng dựa dẫm, tư lợi cá nhân, trình độ quản lý của cán bộ nhiều mặt còn hạn chế, công tác chỉ đạo của chi uỷ có lúc chưa chặt chẽ. Sản xuất nông nghiệp chưa cân đối giữa trồng trọt, chăn nuôi, còn coi nhẹ chăn nuôi gia súc, gia cầm. Việc cải tiến kỹ thuật trong sản xuất chưa có giải pháp cụ thể để phát triển mạnh mẽ các ngành nghề.

Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ mới là:

- Tiếp tục củng cố nhằm hoàn thiện các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc cao, đặc biệt là công tác quản lý. Đi đôi với củng cố hợp tác xã phải đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp thâm canh trồng màu, cây công nghiệp đạt diện tích 100%. Đẩy mạnh công tác ươm, trồng cây và bảo vệ khai thác gỗ và chăn nuôi.

- Đẩy mạnh phong trào văn nghệ trong nhân dân, bảo đảm trên 80% người dân được xem phim, qua các đội chiếu bóng lưu động của huyện. Tăng cường cơ sở vật chất, xây dựng phòng học cho học sinh.

- Tăng cường công tác quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng quân sự, an ninh vững chắc, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược.

- Làm tốt công tác chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Chăm lo xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể vững mạnh. Tăng cường chất lượng sinh hoạt chi bộ, củng cố và nâng cao hơn nữa vai trò tổ chức Đảng trong các đội sản xuất trong hợp tác xã, nhằm lãnh đạo tốt nhiệm vụ quản lý sản xuất, quản lý lao động, quản lý tài vụ trong các hợp tác xã. Xác định rõ nhiệm vụ chính trị trong nhiệm kỳ: nâng cao cảnh giác cách mạng, tập trung xây dựng lực lượng an ninh, quốc phòng vững chắc, chăm lo phát triển kinh tế xã hội, xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể vững mạnh, góp phần đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ chống phá cách mạng miền Bắc.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 09 đồng chí, đồng chí Nguyễn Văn Sỹ được bầu làm Bí thư, đồng chí Võ Văn Đường được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Nguyễn Văn Huyên được bầu làm Trực Đảng.

Sau đại hội, Đảng ủy họp phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên, triển khai kế hoạch tổ chức thực hiện tốt nghị quyết, đồng thời chỉ đạo các đoàn thể, các hợp tác xã tổ chức kiện toàn, củng cố tổ chức, cụ thể hóa nghị quyết đại hội Đảng bộ thành nhiệm vụ cụ thể của đơn vị mình để thực hiện. Từ đó, trong nhiệm kỳ, xã Thanh Hương đã giành được nhiều kết quả trên các lĩnh vực.

Lĩnh vực kinh tế: Để hoàn thành sự nghiệp xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, hoà bình thống nhất nước nhà, ủng hộ phong trào cách mạng thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi “Mỗi người chúng ta phải làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt”[29]. Thực hiện kế hoạch của cấp trên, Đảng uỷ xã đã tổ chức đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng bộ và Nhân dân học tập lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và phát động phong trào thi đua “Mỗi người làm việc bằng hai”. Hưởng ứng đợt phát động phong trào thi đua, xã viên trong các hợp tác xã, đoàn viên, hội viên các đoàn thể quần chúng đã hăng hái lao động sản xuất với tinh thần khẩn trương, mở đầu là phong trào làm phân bón, khai hoang phục hoá, làm bờ vùng, bờ thửa chống xói mòn, chuẩn bị giống tốt cho vụ Hè Thu và Đông Xuân (1964-1965).

Năm 1963, xã Thanh Hương đã tiếp nhận 40 hộ của xã Thanh Luân (Đồng Văn), 06 hộ của xã Thanh Văn (Đại Đồng) sang khai hoang mở rộng diện tích để trồng lúa, trồng khoai, sắn. Đồng thời xã Thanh Hương cũng đã có chủ trương di dời 430 hộ dân trong xã lên vùng đồi núi để giải phóng một lượng lớn diện tích đất để trồng lúa, trồng hoa màu cải thiện đời sống cho nhân dân, tăng diện tích đất nông nghiệp.

Ngoài các hợp tác xã đã được sáp nhập từ trước, đến năm 1964 Hợp tác xã Hòa Bình sáp nhập với Hợp tác xã Hòa Lạc và Hợp tác xã Hòa Mỹ thành Hợp tác xã Hương Lam. Sau sáp nhập các hợp tác xã đã xây dựng một số cơ sở vật chất kỹ thuật như: sân phơi, chuồng trại chăn nuôi tập thể, kho chứa sản phẩm, chứa phân, ủ phân, cơ sở sản xuất giống, phát triển ngành nghề, mua sắm một số công cụ cải tiến và cơ khí nhỏ, áp dụng một số biện pháp kỹ thuật canh tác tiến bộ như sử dụng một số giống lúa mới có năng suất cao hơn, thực hiện xử lý giống lúa bằng lò thúc mầm “ba sôi hai lạnh”. Công tác thuỷ lợi nội đồng, cải tạo đồng ruộng ở những nơi đã có nguồn nước được hợp tác xã chú trọng.

Về trồng trọt: Xã viên các hợp tác xã đã tích cực làm phân xanh cộng với phân chuồng với số lượng lớn để bón. Hợp tác xã đã tu bổ các máng dẫn nước, đắp bờ ruộng giữ nước để phục vụ cấy lúa vụ mùa và Đông Xuân... Phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai” vì đồng bào miền Nam ruột thịt thực sự trở thành cao trào cách mạng và ăn sâu vào ý thức của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã. Trong mỗi suy nghĩ và việc làm của mọi người đều luôn có ý thức không chỉ mình nghĩ và làm cho mình mà còn nghĩ và làm cho đồng bào miền Nam. Kết quả, các hợp tác xã đã thâm canh trồng màu, cây công nghiệp đạt 100% diện tích. Bình quân lương thực đầu người tăng lên, nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước được thực hiện đầy đủ. Đẩy mạnh công tác ươm, trồng cây và khai thác gỗ.

Trong chăn nuôi, các hợp tác xã và xã viên tích cực phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm. Xác định đây là một chủ trương đúng đắn, lại phù hợp với điều kiện của địa phương nên Đảng ủy, chính quyền xã cùng với các hợp tác xã đã tuyên truyền cho xã viên hiểu về chủ trương này. Sau đó, các hợp tác xã tự xây dựng các trại chăn nuôi của mình. Đồng thời mỗi trại chăn nuôi cử một đội trưởng giám sát để quản lý công tác chăn nuôi của trại. Sau một thời gian ngắn triển khai, vào giữa năm 1963, các trại chăn nuôi đã được hoàn thành. Các trại chăn nuôi có từ 150-200 con trâu bò. Ngoài ra, Ủy ban xã còn giao chỉ tiêu cho mỗi hộ gia đình nuôi từ 1-2 con trâu, bò trở lên để đảm bảo sức kéo, giải quyết phần lớn phân bón cho trồng trọt để tăng năng suất cây trồng phục vụ cải tạo đất.

Ngành lâm nghiệp tiếp tục được xã chú trọng. Các hợp tác xã đã làm tốt công tác ươm trồng cây để gây rừng.

Các ngành nghề thủ công truyền thống như mộc, nề, đan lát,… vẫn được duy trì. Một số hợp tác xã còn xây dựng lò vôi, lò gạch, lò ngói để cung cấp các sản phẩm cho nhân dân trong cải tạo ruộng đất, xây dựng nhà cửa.

Hợp tác xã Mua bán đã tạo thêm nhiều mặt hàng mới phục vụ nhân dân. Ngoài các mặt hàng truyền thống hình thành trong những năm qua, hợp tác xã còn thu mua thêm các mặt hàng nông, lâm sản phục vụ bà con.

Hợp tác xã Tín dụng có nhiều chuyển biến rõ nét. Với đội ngũ cán bộ, nhân viên 05 người, vừa tuyên truyền vận động xã viên gửi tiết kiệm, vừa tạo điều kiện để các cá nhân, tập thể trên địa bàn vay vốn phát triển sản xuất, mở mang ngành nghề.

Lĩnh vực văn hóa - xã hội: Phong trào văn hóa, văn nghệ quần chúng phát triển mạnh và rộng khắp trong các hợp tác xã. Các hoạt động thể dục, thể thao được chú trọng, các hợp tác xã đều có đội bóng chuyền, hàng năm đều tổ chức giao lưu và tham gia các giải thi đấu do huyện, xã tổ chức. Công tác thông tin tuyên truyền có nhiều chuyển biến. Các chủ trương của Đảng và Nhà nước được thông tin đến từng người dân để mọi người hiểu và thực hiện tốt công việc của mình, góp phần vào việc ổn định tình hình trên địa bàn.

Đối với giáo dục: Các trường học thường xuyên được tu bổ, để đảm bảo cho việc dạy và học của giáo viên và học sinh. Đặc biệt, đối với các cô giáo dạy các lớp vỡ lòng, phụ cấp được các hợp tác xã chi trả, tính bằng công điểm. Dù đời sống khó khăn nhưng các cô vẫn say sưa với nghề, để trông giữ trẻ cho xã viên yên tâm sản xuất.

Về y tế: Có bước phát triển mới, xã đã đầu tư vốn, ngày công để tu sửa lại trạm y tế. Các trang thiết bị y tế được đầu tư, góp phần to lớn trong việc chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân. Đội ngũ cán bộ y tế, từ y tá, y sỹ đến hộ sinh và các y tá viên đều làm việc nghiêm túc, hết mình để chăm lo sức khỏe cho người dân. Thời gian này, các phong trào vệ sinh phòng bệnh cũng phát triển sôi nổi trên địa bàn. Qua các phong trào, ý thức vệ sinh, phòng bệnh của người dân được tăng lên đáng kể, từ đó các dịch bệnh bị đẩy lùi.

Chính sách xã hội: Hàng năm, Đảng ủy, chính quyền địa phương đã thường xuyên quan tâm tới các gia đình chính sách, thương binh, liệt sỹ. Chăm lo phát triển kinh tế - xã hội nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các đối tượng yếu thế trong xã hội.

Lĩnh vực quốc phòng, an ninh: Cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, Đảng ủy đã tập trung chỉ đạo xây dựng lực lượng quân sự, công an vững mạnh. Lực lượng dân quân, du kích được củng cố, kiện toàn đủ số lượng, đảm bảo chất lượng, thường xuyên huấn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị và kchiến thuật quân sự đảm bảo độ tin cậy, đủ khả năng chiến đấu bảo vệ quê hương. Xây dựng kế hoạch chuyển trạng thái địa phương từ thời bình sang thời chiến và biên chế thành các trung đội theo đơn vị hợp tác xã, luôn sẵn sàng chiến đấu khi cần. Quân nhân xuất ngũ trở thành lực lượng nòng cốt của các trung đội dân quân. Các phương án bắt gián điệp, bao vây quân địch đổ bộ bằng đường không được tập duyệt nhiều lần. Dân quân được huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật đánh địch và cách sử dụng các loại vũ khí bộ binh. Từ cuối năm 1964, nhất là sau “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, lực lượng dân quân xã được tăng cường về số lượng và được huấn luyện cả phương án đánh địch đổ bộ lẫn kỹ thuật bắn máy bay và bắt biệt kích. Xây dựng hệ thống công sự, hầm trú ẩn nơi làm việc, nơi sản xuất, nơi công cộng. Làm tốt công tác giao quân, toàn xã có 21 thanh niên lên đường nhập ngũ.

Về an ninh: Để đảm bảo lực lượng đối phó với âm mưu thủ đoạn của đế quốc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, Đảng ủy chỉ đạo Ban Công an tăng cường xây dựng lực lượng, thường xuyên tuần tra kiểm soát chặt ch tình hình trên địa bàn. Nâng cao cảnh giác cách mạng trước âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ. Phối hợp với lực lượng dân quân xây dựng lực lượng ở từng đội sản xuất. Trong nhiệm kỳ đã x 08 vụ việc liên quan đến hành vi gây rối trật tự, xử lý 12 đối tượng liên quan.

Công tác xây dựng Đảng: Công tác chính trị tư tưởng luôn được chú trọng. Thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ, dưới sự lãnh đạo của Huyện uỷ, sau khi học tập ở huyện về, Đảng ủy đã xây dựng kế hoạch triển khai, tổ chức cho đảng viên trong chi bộ quán triệt Nghị quyết số 09 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nhằm làm cho cán bộ, đảng viên hiểu rõ hơn tình hình, tạo ra sự nhất trí cao với sự đánh giá của Trung ương, thống nhất quan điểm về nhiệm vụ của Đảng ta đối với quốc tế, đặc biệt đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Gắn việc học tập Nghị quyết số 09 với việc xây dựng chi bộ “4 tốt”.

Công tác tổ chức và đảng viên: Đảng ủy đã chú trọng công tác xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Cng cố, kiện toàn tổ chức Đảng từ xã đến thôn, hợp tác xã đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo trong tình hình mới. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cũng được quan tâm. Qua cuộc vận động xây dựng Chi bộ, Đảng bộ “Bốn tốt”, công tác lãnh đạo của Đảng bộ, chi bộ đã có một bước biến chuyển vững chắc. Trong nhiệm kỳ đã cử 06 đồng chí đi học các lớp về nghiệp vụ và nâng cao trình độ lý luận chính trị. Kết quả phân loại đảng viên cuối nhiệm kỳ có 74% đảng viên đạt “4 tốt”, còn lại là đảng viên đạt khá và đạt trung bình, không có yếu kém. Công tác phát triển Đảng được quan tâm, trong nhiệm kỳ đã kết nạp được 07 đồng chí đảng viên mới.

Công tác kiểm tra: Đảng ủy đã tăng cường công tác kiểm tra kịp thời uốn nắn những nhận thức lệch lạc, những hạn chế khuyết điểm, đồng thời thông qua công tác kiểm tra để phát hiện các nhân tố tích cực tạo sức lan tỏa trong toàn Đảng bộ. Trong nhiệm kỳ đã tiến hành kiểm tra, xử lý một số vụ việc, đã cảnh cáo 03 đảng viên.

Công tác dân vận: Đảng ủy xác định đây là nhiệm vụ quan trong trong điều kiện miền Bắc có chiến tranh, nhm nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân tích cực tham gia các phong trào của địa phương. Xây dựng khối đoàn kết toàn dân, đồng sức trong công cuộc xây dựng đời sống mới, tích cực tham gia sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

Thực hiện kế hoạch Đại hội Đảng bộ cấp cơ sở của Huyện ủy Thanh Chương, tháng 3/1964, Đảng ủy xã Thanh Hương tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 1964-1965 tại Hợp tác xã Hương Lam, với sự tham gia của 80 đảng viên.

Đại hội đã đánh giá lại những thành tựu và hạn chế của nhiệm kỳ vừa qua, trong đó nhấn mạnh, những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh là cơ bản. Đó là động lực mạnh mẽ để quân và dân xã Thanh Hương sẵn sàng bước vào thử thách mới. Tuy nhiên bên cạnh đó nhiệm kỳ qua vẫn có những hạn chế như việc điều hành của các hợp tác xã chưa nhịp nhàng, cán bộ một số hợp tác xã còn có tư tưởng chủ quan, kinh tế đã nhiều khởi sắc song vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của địa phương...

Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ tới đó là: Tranh thủ thời gian đẩy mạnh sản xuất toàn diện, giải quyết vững chắc về lương thực. Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, nghề rừng, thủ công nghiệp tạo nhiều sản phẩm hàng hoá. Đẩy mạnh công tác văn hoá, giáo dục, bảo vệ sức khoẻ, tăng cường xây dựng cơ sở vật chất trong các hợp tác xã nhằm tăng thêm thu nhập, nâng cao đời sống xã viên, đưa mức sống của người lao động đến cuối năm 1965 ngang mức trung nông trở lên. Tăng cường công tác an ninh, quốc phòng đảm bảo sức chiến đấu cao. Tập trung tuyên truyền, lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân chuyển dần trạng thái từ thời bình sang thời chiến. Xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể vững mạng đủ tầm lãnh đạo nhân dân bước vào giai đoạn cách mạng mới.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 09 đồng chí, đồng chí Nguyễn Nguyên Cần làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Phan Bá Truyền được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Nguyễn Văn Điệp được bầu làm Trực Đảng.

Sau đại hội, Đảng bộ đã phân công trách nhiệm cụ thể cho từng đảng ủy viên để chỉ đạo các đơn vị hợp tác xã hoàn thành các mục tiêu mà nghị quyết đã đề ra.

Lĩnh vực kinh tế: Để tiếp tục củng cố các hợp tác xã nông nghiệp, xã Thanh Hương tổ chức sáp nhập một số hợp tác xã để hoàn thành xây dựng hợp tác xã quy mô. Trong năm 1965, Hợp tác xã Hương Thủy sáp nhập vào Hợp tác xã Thắng Lợi thành Hợp tác xã Hương Liên do ông Nguyễn Văn Khâm làm Chủ nhiệm, ông Nguyễn Bá Khoan làm Phó Chủ nhiệm. Cũng trong năm 1965 xã Thanh Hương tiếp tục tiếp nhận 80 hộ của xã Thanh Lĩnh lên khai hoang mở rộng diện tích canh tác trồng màu trồng lúa.

Đối với sản xuất, xã tiếp tục thực hiện phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai” vì đồng bào miền Nam ruột thịt, nhân dân ra sức lao động sản xuất. Kết quả, diện tích gieo trồng năm 1965 tăng 25,3% so với năm 1964, tổng sản lượng lương thực đạt 600 tấn. Bình quân lương thực đầu người đạt 27 kg/tháng. Chăn nuôi đạt 99,1% so với kế hoạch, riêng đàn lợn vượt 37% so với kế hoạch đề ra.

Một trong những thành tích nổi bật của xã Thanh Hương trong giai đoạn này là đẩy mạnh được phong trào khai hoang, mở rộng diện tích, cùng với các xã Thanh Cát, Thanh Bích, Thanh Lâm và Thanh Minh, đã được Huyện ủy biểu dương[30].

Các ngành nghề thủ công như mộc, nề, đan lát, lò vôi, lò gạch, lò ngói xây dựng kế hoạch sản xuất trong điều kiện có chiến tranh để đảm bảo cung cấp các sản phẩm cho tiêu dùng và phục vụ sản suất, xây dựng nhà cửa, công trình công cộng ở địa phương.

Hợp tác xã Mua bán, đã làm tốt công tác quản lý và tổ chức kinh doanh, tạo thêm nhiều mặt hàng mới phục vụ cho sản xuất và đời sống người dân, xây dựng phương án tránh trú đảm bảo an toàn hàng hóa, tài sản của tập thể.

Hợp tác xã Tín dụng, đã có sự chuyển biến rõ nét. Tổ chức hoạt động linh hoạt trong huy động vốn và cho vay vốn, phát huy được nguồn vốn không để nhàn rỗi phục vụ cho sản xuất, số dư được tăng lên 6.500 đồng.

Lĩnh vực văn hóa - xã hội: Các hoạt động văn hóa, văn nghệ được tổ chức sâu rộng, đời sống tinh thần của người dân được nâng lên, tạo khí thế cách mạng sôi nổi. Phong trào thể dục, thể thao được chú trọng, các hợp tác xã đều có đội bóng chuyền, hàng năm đều tổ chức giao lưu và tham gia các giải thi đấu do các cấp tổ chức.

Về giáo dục: Xã đã chú trọng chăm lo về xây dựng cơ sở vật chất. Từ đó, các trường học thường xuyên được tu bổ, để đảm bảo cho việc dạy và học của giáo viên và học sinh. Hàng năm tỷ lệ học sinh lên lớp đạt trên 98%, số học sinh khá, giỏi năm sau cao hơn năm trước.

Đối với y tế: Các trang thiết bị y tế được đầu tư, góp phần to lớn trong việc chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho người dân. Bên cạnh đó đã tập trung xây dựng phương án phục vụ chiến đấu, cứu thương cho nhân dân và cán bộ chiến sỹ khi tham gia chiến đấu, làm tốt công tác phòng dịch trong điều kiện có chiến tranh. Đội ngũ cán bộ y tế, từ y tá, y sỹ đến hộ sinh và các y tá viên đều làm tận tâm. Các dịch bệnh lớn không diễn ra trên địa bàn xã.

Lĩnh vực quốc phòng, an ninh: Để đảm bảo tốt công tác quốc phòng, an ninh trên địa bàn xã, thực hiện Chỉ thị số 81-CT/TW ngày 29/6/1964 của Bộ Chính trị về việc “Tăng cường sẵn sàng chiến đấu chống lại mọi âm mưu khiêu khích, phá hoại miền Bắc của địch”, Đảng uỷ xã giao nhiệm vụ cho Ban Chỉ huy xã đội khảo sát, kiểm tra lại các thực địa, hoàn chỉnh phương án tác chiến, bố trí trận địa và lực lượng chiến đấu, phối hợp chặt chẽ với các xã bạn tăng cường công tác tuần tra, bảo vệ các mục tiêu, khi có tình huống xảy ra là hợp đồng chiến đấu thắng lợi ngay trận đầu. Xây dựng, củng cố tổ chức lại lực lượng dân quân, vận động thanh niên lên đường nhập ngũ và tham gia dân quân, du kích chiến đấu bảo vệ làng, xã. Mỗi hợp tác xã nông nghiệp có một trung đội dân quân, toàn xã một đại đội, có trung đội dân quân trực chiến đấu. Tổ chức đào hầm hào dọc đường giao thông, hầm hào ở trụ sở làm việc của Đảng uỷ, ủy ban, các trường học, trạm y tế xã, đề phòng máy bay địch oanh tạc.

Ngày 08/5/1964, một toán biệt kích nhảy dù xuống khu rừng già xứ cây Dung (xã Thanh Tùng). Huyện Thanh Chương đã thành lập Ban chỉ đạo chống biệt kích tại xã Thanh Tùng. Sau đó, huyện huy động các lực lượng bộ đội, công an, dân quân du kích các xã đi truy bắt. Cùng với lực lượng dân quân, tự vệ của các đơn vị khác, xã Thanh Hương huy động 01 tiểu đội tham gia truy bắt nhóm biệt kích này.

Công tác an ninh: Được xác định là nhiệm vụ quan trọng, tăng cường phòng gian, bảo mật, lực lượng công an được củng cố, thành lập các tổ an ninh ở các thôn, xóm làm tốt công tác phối hợp với các lực lượng thường xuyên tuần tra, kiểm soát đảm bảo giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.

Công tác xây dựng Đảng: Đảng bộ đã nghiêm túc thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên về công tác tư tưởng. Trong giai đoạn này chú trọng nhất đó là Nghị quyết số 09 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Tình hình thế giới và nhiệm vụ quốc tế của Đảng và tình hình nhiệm vụ cách mạng miền Nam trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”. Đảng bộ xã gắn việc học tập Nghị quyết số 09 với việc xây dựng Chi bộ “4 tốt”. Từ đó, cấp ủy đã nắm được tình hình và yêu cầu cách mạng chung của cả nước để thực hiện tốt các phong trào ở địa phương, đưa cách mạng đi lên. Đảng ủy xác định rõ nhiệm vụ của công tác tư tưởng trong giai đoạn này là nâng cảnh giác cách mạng, đoàn kết vượt qua gian khổ, hy sinh. Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu đi đầu trong thực hiện nhiệm vụ tạo nên phong trào cách mạng vững mạnh, xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, quyết tâm cùng cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược…

Công tác tổ chức và đảng viên: Đảng ủy đã củng cố, kiện toàn tổ chức Đảng từ xã đến hợp tác xã và các đội sản xuất, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo trong tình hình mới. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cũng được quan tâm. Qua cuộc vận động xây dựng Chi bộ, Đảng bộ “4 tốt”, công tác lãnh đạo của Đảng bộ, chi bộ đã có một bước biến chuyển vững chắc. Kết quả, toàn Đảng bộ có 80% chi bộ đạt tiêu chuẩn “4 tốt”, tỷ lệ đảng viên “4 tốt” năm 1965 chiếm 65%, khá chiếm 23,9%, trung bình chiếm 9,8%, kém chiếm 1,1%.

Công tác kiểm tra: Đảng ủy đã tăng cưng công tác kiểm tra, thông qua đó phát hiện các nhân tố tích cực tạo sức lan tỏa trong toàn Đảng bộ. Trong nhiệm kỳ đã tiến hành kiểm tra, xử lý một số vụ việc, đã cảnh cáo 04 đảng viên.

Công tác dân vận: Được xác định là nhiệm vụ rất quan trọng trong thời kỳ có chiến tranh, Đảng bộ đã làm tốt công tác vận động quần chúng, xây dựng tình đoàn kết trong nhân dân, tích cực bám đồng ruộng để sản xuất, bám làng để chiến đấu, nâng cao cảnh giác, vượt qua khó khăn, gian khổ, hy sinh đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng khối đoàn kết góp phần đánh thắng giặc Mỹ xâm lược……

Qua 10 năm khôi phục, xây dựng và phát triển kinh tế, Đảng bộ và Nhân dân xã Thanh Hương đã chấp hành tốt đường lối chủ trương của Đảng, đoàn kết một lòng, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, vượt qua khó khăn, thử thách, khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, tiến hành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của kế hoạch năm năm lần thứ nhất. Kết quả phấn đấu trong mười năm đã tạo bước chuyển biến quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội quốc phòng - an ninh trên địa bàn toàn xã, đã xác lập được quan hệ sản xuất mới, kinh tế - xã hội phát triển, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện, lòng tin của người dân vào sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ ngày càng được củng cố, sự thống nhất về ý chí và hành động trong Đảng bộ và Nhân dân ngày càng tăng. Đó là cơ sở sức mạnh để Đảng bộ và Nhân dân xã nhà vững vàng bước vào cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Chương IV

ĐẢNG BỘ XÃ THANH HƯƠNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN

THAM GIA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1965 - 1975)

 

 I. LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN VỪA SẢN XUẤT, VỪA CHIẾN ĐẤU, GÓP PHẦN ĐÁNH THẮNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ NHẤT CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (1965 - 1968)

Sau gần 05 năm phấn đấu thực hiện kế hoạch Nhà nước năm năm lần thứ nhất (1961-1965), mặc dù còn một số chỉ tiêu chưa hoàn thành do chiến tranh ập đến. Nhưng với truyền thống lao động cần cù, dũng cảm, vượt mọi khó khăn gian khổ, tuyệt đối trung thành với đường lối lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ xã Thanh Hương đã lãnh đạo nhân dân từng bước xác lập được quan hệ sản xuất mới một cách rõ nét trên địa bàn. Đời sống người dân được cải thiện một bước đáng kể. Hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh. Những kết quả trên là cơ sở vững chắc để Đảng bộ và Nhân dân xã Thanh Hương bước vào thực hiện nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới.

Thực hiện kế hoạch Đại hội Đảng bộ cấp cơ sở của Huyện ủy Thanh Chương, tháng 3/1965, Đảng ủy Thanh Hương tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 1965-1966, tại Hương Lam với tham dự của 83 đảng viên.

Đại hội đánh giá kết quả đạt được trong nhiệm kỳ qua là nhờ vào vai trò lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội cùng sự đồng lòng quyết tâm của nhân dân toàn xã. Từ đó, địa phương đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ nỗ lực phấn đấu hoàn thành cơ bản các nhiệm vụ đã đề ra. Từng bước đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho người dân trong điều kiện có chiến tranh; các hoạt động văn hóa, thể thao đi vào chiều sâu; công tác y tế vừa chăm sóc sức khỏe cho nhân dân vừa phục vụ chiến đấu; lực lượng vũ trang được củng cố, kiện toàn đảm bảo quân số và nâng cao chất lượng đáp ứng yêu cầu chiến đấu và bảo vệ an ninh trên địa bàn. Chính quyền, mặt trận và các đoàn thể đã nâng cao vai trò trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị. Tập trung xây dựng Đảng bộ vững mạnh toàn diện…

Đại hội đã nghiêm túc kiểm điểm những hạn chế khuyết điểm trong quá trình chuyển trạng thái địa phương từ thời bình sang thời chiến còn bất cập, công tác lãnh đạo của cấp ủy có lúc chưa theo kịp tình hình, Mặt trận và các đoàn thể chưa phát huy cao độ trách nhiệm trong tuyên truyền vận động. Một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện dao động trước sự đánh phá ác liệt của đế quốc Mỹ…

Đại hội đã đề ra phương hướng trọng tâm là: Đẩy mạnh công tác vừa sản xuất vừa chiến đấu, tăng cường tuần tra canh gác. Tổ chức lại lực lượng dân quân, du kích tăng cường huấn luyện quân sự để sẵn sàng chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống. Tổ chức lực lượng nòng cốt ở các hợp tác xã để trang bị vũ khí, tăng cường công tác bảo mật, phòng gian. Tích cực tuyên truyền, giáo dục về quan điểm đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, trước những âm mưu đánh phá của kẻ thù.

Chú trọng phát triển văn hóa - xã hội, đảm bảo an toàn cho việc dạy và học cho giáo viên và học sinh. Bố trí các lớp học phân tán trong dân cư hoặc những nơi an toàn. Duy trì các hoạt động văn nghệ, thể dục, thể thao. Làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân và phục vụ chiến đấu.

 Tăng cường xây dựng chính quyền, mặt trận và các đoàn thể chính trị xã hội vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Làm tốt công tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Chú trọng kết nạp đảng viên mới.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 09 đồng chí, đồng chí Nguyễn Nguyên Cần được bầu làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Phan Bá Truyền được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Võ Văn Đường được bầu làm Trực Đảng.

Sau đại hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân xã Thanh Hương vượt qua những khó khăn để giành được nhiều kết quả trên các lĩnh vực.

Lĩnh vực kinh tế: Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, năm 1965, năm cuối của kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất và cũng là năm đầu tiên đế quốc Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc trên diện rộng, sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn như hạn hán, hậu quả của những trận bão, lũ cuối năm 1964 chưa khắc phục xong thì chiến tranh phá hoại xảy ra, phần lớn lao động trẻ, khoẻ rời sản xuất nông nghiệp để vào bộ đội, thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến, dân quân tự vệ... Tuy vậy, thực hiện các phong trào thi đua trong sản xuất, cấp ủy đã chỉ đạo các hợp tác xã vận động xã viên luồn lách thời gian tránh sự đánh phá của máy bay Mỹ giảm thiểu tổn thất về người và tài sản, bám đồng ruộng để sản xuất quyết tâm gieo trồng hết diện tích và đảm bảo năng suất, sản lượng. Tổng diện tích gieo trồng tăng 10% so với nhiệm kỳ trước, vượt 1,3% so với kế hoạch đề ra. Năng suất lúa bình quân đạt 3,6 tấn/ha.

Chăn nuôi được quan tâm, cấp ủy đã chỉ đạo các hợp tác xã chú trọng phát triển đàn trâu bò để đảm bảo sức kéo phục vụ sản xuất. Tổng đàn trâu, bò có trên 600, đàn lợn tăng 42%, đàn gia cầm tăng 5%. Trong đó, chăn nuôi tập thể phát triển mạnh, công tác thú y được chú trọng nên các dịch bệnh không xẩy ra.

Đội sơn tràng của xã luôn đứng tốp đầu của huyện về khai thác và giao nộp lâm sản, nhất là gỗ. Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp như mộc, nề, đan lát, rèn... được duy trì tốt.

Hệ thống giao thông, thủy lợi, các công trình phục vụ dân sinh và đảm bảo chiến đấu được củng cố, vừa đáp ứng công tác sản xuất vừa đảm bảo cho công tác phòng tránh máy bay đánh phá…

Cùng với phong trào sản xuất nông nghiệp, hợp tác xã mua bán đã kết hợp chặt chẽ giữa bán các loại hàng do thương nghiệp huyện cung ứng nguồn hàng tiêu dùng, phục vụ sản xuất và thu mua các nguồn hàng nông lâm, thực phẩm do nông dân sản xuất cung cấp lại cho người tiêu dùng.

Hợp tác xã Tín dụng đã tích cực đi vào các tập thể và các hộ gia đình xã viên để vận động gửi tiền tiết kiệm. Kết quả có trên 75% thành viên tham gia góp vốn, tổng số vốn lên trên 10 ngàn đồng. Đây là nguồn vốn quan trọng giúp cho xã viên vay để phát triển kinh tế gia đình, ổn định cuộc sống.

Trong thời gian này, Thanh Hương tiếp nhận 40 hộ dân từ các xã Thanh Lĩnh, Thanh Tường di dân tới khu vực đất nông trường trồng mía Hòa Quân, lập nông trang theo chủ trương của huyện.

Với đặc điểm địa hình vừa có sông, có núi, là nơi an toàn nên nhiều cơ quan của Nhà nước đã được sơ tán về trên địa bàn. Trong 02 năm 1965, 1966, xã Thanh Hương đã tiếp nhận Nhà máy gỗ Vinh sơ tán về trên địa bàn (xóm 1 ngày nay). Tiếp đó là cơ quan Lâm nghiệp, trường Thể dục Thể thao sơ tán về xóm Thanh Tuyền. Các cơ quan về trú chân trên địa bàn đều được sự quan tâm rất lớn từ Đảng ủy, chính quyền địa phương và người dân.

Lĩnh vực văn hóa - xã hội: Trước các hành động leo thang đánh phá miền Bắc, công tác văn hóa, văn nghệ thông tin tuyên truyền luôn được Đảng ủy quan tâm. Các hoạt động văn hóa, thể thao, tuyên truyền được đẩy mạnh, phong trào “tiếng hát át tiếng bom” được phát động sâu rộng, các chương trình văn nghệ được dàn dựng công phu, thiết thực phục vụ người dân nhằm cổ vũ động viên cán bộ, nhân dân khắc phục khó khăn, gian khổ quyết tâm chiến đấu, sản xuất giỏi. Bằng các hình thức tuyên truyền để nâng cao giác ngộ cách mạng cho quần chúng nhân dân về chấp hành và thực hiện các chính sách chủ trương của Đảng, Nhà nước và địa phương trong thời chiến, nhất là nội quy về phòng không, làm hầm trú ẩn được thực hiện tốt. Đoàn Thanh niên có sáng kiến khắc và quét vôi trắng câu khẩu hiệu: “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” lên mái Rú Lôông, từ xa vẫn có thể đọc được, để bày tỏ ý chí và quyết tâm sắt đá của Đảng, của dân tộc, cổ vũ toàn dân hăng hái thi đua sản xuất, chiến đấu, học tâp và làm nghĩa vụ với tiền tuyến lớn miền Nam. Năm 1966, mặc dù chiến tranh đang leo thang nhưng tại Thanh Hương, Đại hội Thể thao của đại diện thanh niên toàn tỉnh do Tỉnh đoàn Thanh niên Nghệ An tổ chức vẫn diễn ra sôi nổi.

Đối với giáo dục: Để đảm bảo cho việc dạy và học của nhà trường, Đảng uỷ chỉ đạo các trường, các lớp vỡ lòng, nhà trẻ, phải chuyển ra khỏi các vùng trọng điểm đánh phá của địch, phân tán nhỏ lẻ theo trường lớp, nhóm đưa về các đội sản xuất, các xóm, dựa vào dân để học, có hệ thống hầm, hào chắc chắn, bảo vệ an toàn tính mạng cho thầy, cô, trò khi địch đánh phá vào địa bàn. Hàng ngày dưới làn mưa bom, bão đạn tiếng gầm rú của máy bay địch học sinh vẫn đến trường chăm chỉ học tập. Việc dạy và học diễn ra trong điều kiện vô cùng khó khăn, thiếu giấy, vở, bút, mực... nhưng thầy, cô giáo cùng cha mẹ học sinh vẫn tìm cách để khắc phục quyết tâm dạy tốt, học tốt. Số lượng học sinh đến trường các năm đều tăng. Sau khi máy bay Mỹ đánh vào Dùng, trường cấp 3 Thanh Chương được sơ tán về xã Thanh Hương (vùng xóm 1) để học. Học sinh và các thầy cô giáo được chính quyền địa phương và nhân dân hết sức giúp đỡ để ổn định công tác dạy và học.

Công tác y tế được tăng cường cán bộ, đầu tư làm hầm, hào chắc chắn, tủ thuốc được đầu tư từ 02 nguồn đó là từ Nhà nước và nguồn ngân sách của địa phương. Ngoài ra, nhân dân còn đóng góp thêm tiền mua đủ thuốc men, bông băng, phục vụ kịp thời cho yêu cầu chiến đấu và chăm sóc sức khoẻ của nhân dân. Trạm y tế xã không chỉ phục vụ nhân dân trong xã mà còn phục vụ cán bộ, bộ đội đi công tác qua lại nghỉ ngơi, ốm yếu, hoặc bị thương tích do máy bay Mỹ gây nên, người dân vãng lai trong và ngoài địa bàn. Đội ngũ nhân viên trạm y tế không quản ngại khó khăn đi khắp các hợp tác xã để cứu chữa người dân bị thương.

Chính sách xã hội được chú trọng. Xã đã làm tốt công tác động viên, thăm và tặng quà các gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân, thanh niên lên đường nhập ngũ, dân quân và những người bị thương trong chiến tranh.

Lĩnh vực quốc phòng, an ninh: Ngày 07/02/1965, Mỹ cho máy bay ném bom đảo Cồn Cỏ, thị xã Đồng Hới, chính thức phát động cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất. Từ ngày 19-26/3/1965, hàng chục chiếc máy bay các loại, F105D, F8U, F4H đã liên tục đánh vào các vị trí trọng yếu của huyện Thanh Chương như Rú Hào, Dùng, Rạng, Thanh Hưng, Thanh Văn… hàng trăm quả bom các loại đã trút xuống các trọng điểm này. Nhưng với tinh thần hiệp đồng chiến đấu với các xã lân cận, lực lượng phòng không Thanh Hương đã phối hợp chiến đấu với các xã Thanh Hưng, Thanh Văn, Thanh Đồng, Thanh Lĩnh, Thanh Tiên, Thanh Tường, Thanh Luân… góp phần bắn rơi và bắn bị thương nhiều máy bay địch[31].

Trước tình hình đó, Đảng uỷ đã tập trung chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh, tăng cường huấn luyện đảm bảo sức chiến đấu, hướng dẫn cách phòng tránh cho nhân dân, đảm bảo hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại về người, về của. Vận động nhân dân thực hiện khẩu hiệu “Nhà che nắng, che mưa, hầm che xương, che thịt”, toàn dân tập trung tu sửa lại giao thông hào, đào thêm hầm trú ẩn. Trong làm hầm đợt này nhân dân đã có kinh nghiệm làm hầm chữ “L”, chữ “A”, chữ “Z”, bờ hầm, nóc hầm, có đóng tre, gỗ chống sạt lở, đổ đất dày trên nóc hầm chống bom bi cùng các mảnh bom, đạn khác, đảm bảo được độ vững chắc. Đến năm 1965, xã đã cơ bản hoàn thành hệ thống phòng không, hầm cá nhân, hầm trú ẩn gia đình các loại, nhà hầm, hào giao thông, trận địa bắn máy bay địch, trạm cứu thương thời chiến... các phương án xử lý tình huống xảy ra bị máy bay địch oanh tạc đều được chuẩn bị tốt. Nhân dân đã chuyển mọi sinh hoạt xuống lòng đất và tiếp tục bám đất, bám làng, bám đồng ruộng để sản xuất và chiến đấu. Hoạt động lao động, đời sống hàng ngày đều chuyển sang “quân sự hoá” khi có báo động máy bay Mỹ xuất hiện, những người không làm nhiệm vụ chiến đấu lập tức xuống hầm trú ẩn, dân quân, tự vệ, ngồi trực chiến triển khai ngay lực lượng chiến đấu.

Thời gian này, toàn xã có trên 100 dân quân, trong đó nữ chiếm 68,7%; tỉ lệ dân quân chiếm 13,1% so với dân số của xã. Lực lượng dân quân đều do các cấp ủy trực tiếp phụ trách và được luyện tập các phương án đánh địch như bắn máy bay bay thấp, đánh địch đổ bộ đường không, bắt giặc lái… Trong những năm chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, dân quân, thực sự là lực lượng nòng cốt trong sản xuất và chiến đấu ở địa phương. Tính đến năm 1966, lực lượng dân quân đã đào hàng trăm m3 đất đá để xây dựng trận địa, đảm bảo cho các tổ trực chiến sẵn sàng chiến đấu bắn trả máy bay địch.

Trước tình hình địch đánh phá ác liệt, Đảng uỷ xã chủ trương phát động toàn dân huy động mọi lực lượng, bằng mọi biện pháp, kiên quyết đảm bảo an toàn cho tính mạng và tài sản. Đồng thời giao cho trạm y tế xã làm tốt công tác cứu chữa người bị thương kịp thời.

Công tác xây dựng Đảng: Công tác chính trị, tư tưởng, trong tình hình chiến tranh ác liệt nhưng Đảng ủy đã chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cáo giác ngộ cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên phải gắn bó máu thịt với nhân dân. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 của Trung ương Đảng, Nghị quyết Đại hội huyện Đảng bộ, cùng với việc chuyển hướng sang thời chiến, Đảng bộ xã đã kịp thời chỉ đạo chuyển hướng công tác tư tưởng và tổ chức phù hợp với tình hình. Tổ chức học tập, bồi dưỡng đường lối cách mạng của Đảng về 02 nhiệm vụ cách mạng: xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tạo sự đồng thuận, nhất trí cao trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng nhất là trong lực lượng vũ trang và đoàn viên thanh niên. Xây dựng tinh thần quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Công tác tổ chức và đảng viên: Ban Chấp hành Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo công tác, kiện toàn một bước sự lãnh đạo và chỉ đạo của các cấp ủy, đẩy mạnh xây dựng Đảng bộ, Chi bộ “4 tốt”; trong đó, tập trung làm tốt 04 công tác lớn: xây dựng và rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có chất lượng cao, có số lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới; củng cố chi bộ, kiện toàn cấp ủy Đảng; tăng cường công tác lãnh đạo quần chúng, công tác phát triển đảng viên được các cấp ủy chú ý nắm vững yêu cầu, tiêu chuẩn trong điều kiện mới, ra sức nâng cao chất lượng đảng viên, bảo đảm chất lượng là chính. Cuộc vận động xây dựng Đảng bộ, Chi bộ “4 tốt” tiếp tục được tiến hành từ cơ sở lên. Vì vậy đội ngũ cán bộ, đảng viên trưởng thành một bước về nhận thức, tư tưởng, quan điểm, lập trường giai cấp, tạo nên niềm tin tưởng, phấn khởi trong Đảng bộ và Nhân dân.

Trong nhiệm kỳ đã kết nạp được 08 đảng viên, các đảng viên luôn hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Việc phân loại đảng viên, chi bộ được Đảng ủy xã quan tâm, từ đó, các đảng viên, chi bộ đạt tiêu chuẩn “4 tốt” tăng lên.

Công tác kiểm tra: Đảng ủy đã xây dựng kế hoạch kiểm tra và tổ chức kiểm tra kịp thời uốn nắn những hạn chế, yếu kém của một số cán bộ, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của đảng viên và toàn Đảng bộ. Trong nhiệm kỳ đã tiến hành kiểm tra được 08 cuộc, phát hiện và xử lý kỷ luật một số đồng chí cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ.

Công tác dân vận: Đảng ủy xác định công tác dân vận có tầm quan trọng trong thời chiến. Đảng ủy đã phân công cấp ủy phụ trách địa bàn bám nắm kịp thời tâm tư tình cảm của Nhân dân, tăng cường tuyên truyền vận động người dân tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng khối đoàn kết trong nhân dân, giữa nhân dân bản địa với nhân dân các vùng khác tới sinh sống trên địa bàn.

Nhiệm kỳ qua Đảng bộ và Nhân dân đã vượt qua muôn vạn khó khăn, gian khổ, đoàn kết chung sức chung lòng sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi giữ vững trận địa lòng dân, phát huy truyền thống cách mạng vươn lên hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Điểm nổi bật trong nhiệm kỳ này là: Ý Đảng lòng dân được quyện thành sức mạnh để Đảng bộ và Nhân dân vượt qua mọi thử thách gian lao, lửa thử vàng, gian nan thử sức quyết tâm cùng cả nước xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Thực hiện kế hoạch Đại hội Đảng bộ cấp cơ sở của Huyện ủy Thanh Chương, tháng 3/1966, Đảng ủy xã Thanh Hương tổ chức Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 1966-1967 tại Hương Trung, với sự tham gia của 89 đảng viên.

Đại hội đã đánh giá lại mọi mặt hoạt động trong nhiệm kỳ qua. Về ưu điểm, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân chuyển trạng thái từ hòa bình sang chiến tranh; huy động được sức mạnh của quần chúng trong việc chiến đấu, phục vụ chiến đấu. Các cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận và các tổ chức đoàn thể đã hăng hái tham gia sự nghiệp kháng chiến kiến quốc. Kinh tế được duy trì, văn hóa - xã hội tiếp tục có những hoạt động sôi nổi; quốc phòng, an ninh trên địa bàn được đảm bảo. Công tác xây dựng Đảng được quan tâm đúng mức. Về hạn chế, một số cán bộ, đảng viên và quần chúng vẫn chưa thực sự tuân thủ các chủ trương, chính sách của Nhà nước. Một bộ phận quần chúng còn có tư tưởng chủ quan trong việc thực hiện chủ trương phòng tránh máy bay địch. Việc phát triển kinh tế nông nghiệp gặp khó khăn do sự đánh phá ác liệt của kẻ thù. Việc phòng chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm còn chưa được chú ý nhiều.

Đại hội thảo luận và đề ra nhiệm vụ cho nhiệm kỳ tới đó là: Chú trọng phát triển, kiện toàn lại các hợp tác xã, đẩy mạnh khai hoang, mở rộng diện tích đất canh tác, đảm bảo an toàn cho nhân dân lao động sản xuất. Công tác an ninh chính trị, an toàn trên địa bàn toàn xã phải được đưa lên hàng đầu, tích cực chủ động sáng tạo để phòng tránh mọi diến biến bất ngờ xảy ra của kẻ thù. Phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục và y tế. Xây dựng tổ chức chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể vững mạnh. Chú trọng công tác xây dựng Đảng.

Đại hội bầu Ban Chấp hành mới gồm 11 đồng chí, đồng chí Nguyễn Văn Huyên được bầu làm Bí thư, đồng chí Võ Văn Đường được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Nguyễn Văn Điệp được bầu làm Trực Đảng. Đến tháng 6/1966, đồng chí Võ Văn Đường được bầu làm Bí thư; đồng chí Đinh Văn Khả được bầu làm Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban hành chính xã.

Sau đại hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, sự chung sức của nhân dân và hệ thống chính trị, xã Thanh Hương đã giành được nhiều thành tựu trên nhiều lĩnh vực.

Lĩnh vực kinh tế: Dù chiến tranh leo thang ngày càng ác liệt hơn nhưng với quyết tâm không để đồng ruộng bỏ hoang, các hợp tác xã đã vận động xã viên tranh thủ thời điểm máy bay Mỹ ngừng oanh tạc để sản xuất. Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm để sản xuất kịp thời vụ. Các mương máng, cầu cống, hồ đập bị trúng bom đạn hư hỏng được sửa chữa ngay để đảm bảo nước cho sản xuất. Việc chăn nuôi cũng được chú trọng. Các trại chăn nuôi của hợp tác xã được bố trí ở những nơi an toàn. Việc phòng dịch được chú ý.

So với các địa phương khác, giai đoạn này Thanh Hương vẫn là nơi khá an toàn lại có nhiều đất sản xuất. Vì vậy, từ năm 1966, xã Thanh Hương trở thanh điểm đến của nhân dân trong vùng như xã Thanh Lĩnh, Thanh Luân, Thanh Tài, Thanh Tường… nên dân số tăng lên. Trước tình hình đó, để thuận tiện cho việc quản lý, điều hành, huyện đã cắt vùng Đồng Du về sáp nhập với xã Thanh Lĩnh. Kể từ đó, làng Đồng Du trở thành một bộ phận của xã Thanh Lĩnh.

Đầu năm 1967, trước yêu cầu mới, một số hợp tác xã nông nghiệp trong toàn xã đã sáp nhập lại: Hợp tác xã Quyết Tiến tách Hương Tuyền để sáp nhập vào Nông trang Lĩnh Bình thành Hợp tác xã Hương Tiến. Hợp tác xã Hương Liên sáp nhập với Hợp tác xã Hương Sơn thành Hợp tác xã Hương Trung. 

Sau khi được sáp nhập, các hợp tác xã đã tập trung chỉ đạo xã viên khai hoang, mở rộng diện tích, tăng vụ. Thực hiện lại cơ cấu cây trồng, du nhập các giống lúa mới vào trong sản xuất như giống Nông nghiệp 5, Nông nghiệp 8, đồng thời áp dụng các tiến bộ khoa học vào trong sản xuất. Qua các phong trào thi đua sản xuất, các hợp tác xã đã đạt được những thành tích đáng kể. Sản lượng lương thực giữ vững. Kỹ thuật canh tác được cải tiến. Giống lúa mới được ứng dụng vào sản xuất, góp phần đưa năng suất lên cao, thực hiện tốt khẩu hiệu “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Để phòng tránh máy bay địch, bà con xã viên nêu cao khẩu hiệu “Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm”. Lợi dụng những đêm trăng sáng, bà con vận chuyển phân bón ra đồng, hoặc cày bừa đến 9, 10 giờ tối mới nghỉ, vừa được công việc, vừa tránh tụ tập đông người trên đồng ruộng vào giờ cao điểm khi địch có thể đánh phá ban ngày. Ban ngày nếu đi sản xuất thì phải phân tán người ra thành các tổ tam giao (03 người), ngũ giao (05 người), sau lưng mang theo hai nhành cây để nguỵ trang. Kết quả về sản xuất lương thực đạt được rất khả quan. Bình quân năng suất lúa trong những năm 1966-1967, đạt 3,5-3,7 tạ/ha, sản lượng các loại hoa màu cũng tăng theo từng năm. Bình quân ngày công đạt hơn 12 kg.

Bên cạnh đó, chăn nuôi cũng được quan tâm phát triển. Hợp tác xã duy trì được trại nuôi trâu, bò tập thể. Giai đoạn này do chiến tranh ác liệt nên chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hộ gia đình bị giảm xuống.

Để cải tạo ruộng đất, tự túc các nguyên liệu phục vụ cho hợp tác xã, theo chủ trương của xã đã thành lập các tổ sản xuất gạch ngói, đốt vôi. Từ đó, xã có 01 tổ chuyên sản xuất gạch ngói để nộp gạch ngói nghĩa vụ và phục vụ cho nhân dân trong xã, mỗi lần ra lò được khoảng 01 vạn sản phẩm. Xã có một tổ chuyên đốt vôi, hàng năm sản xuất được hàng chục tấn vôi phục vụ cho xã viên cải tạo ruộng đất cũng như để xây dựng các công trình công cộng.

Các hợp tác xã tín dụng và mua bán đã có những đổi mới trong hoạt động, giúp cho người dân tiếp cận được nhiều hàng hóa và nguồn vốn hơn. Hợp tác xã Tín dụng đã cho hàng chục xã viên vay vốn để làm ăn. Số dư tín dụng tăng lên đến 15.000 đồng. Hợp tác xã Mua bán đã mở thêm các điểm bán, việc mua bán, phục vụ người dân ngày càng tận tình, chu đáo hơn. Các mặt hàng ngày càng đa dạng và phong phú. Để có thêm cơ sở vật chất cho hợp tác xã mua bán, xã có chủ trương đưa đình hạ của đình Hòa Quân về làm trụ sở. Đồng thời di dời đình thượng về vùng Sừng Bò để làm nhà trực phòng không.

Lĩnh vực văn hóa - xã hội: Dù có chiến tranh nhưng các hoạt động văn hóa - xã hội vẫn diễn ra thường xuyên và đảm bảo an toàn. Các lớp học được đưa đi sơ tán, cơ sở ban đầu còn đơn sơ với những ngôi nhà gỗ lợp bằng tranh tre, nứa lá do phụ huynh học sinh dựng lên đủ để che nắng che mưa có chỗ cho con em học tập.

Trạm y tế xã đã làm tốt công tác sơ khám ban đầu. Các hợp tác xã có y tế viên, có tủ thuốc để đề phòng khi bất trắc. Nhiều gia đình còn trang bị cả tủ thuốc cá nhân trong nhà phòng khi cần dùng đến.

Các hoạt động văn hóa, thông tin được xã chú trọng. Các bản tin được đưa tới người dân sớm nhất có thể. Công tác tuyên truyền được các hợp tác xã chú ý. Mỗi hợp tác xã có một đội văn nghệ, vào các dịp lễ, tết vẫn luyện tập để biểu diễn cho nhân dân xem.

Lĩnh vực quốc phòng, an ninh: Đây là giai đoạn chiến tranh phá hoại của Mỹ leo thang đánh phá ác liệt. Trên các chiến trường, quân ta liên tiếp tấn công quân địch. Việc chi viện cho chiến trường lúc này là rất cần thiết. Lực lượng thanh niên của xã Thanh Hương luôn sẵn sàng lên đường nhập ngũ và tham gia đi thanh niên xung phong.  Ở địa phương, 04 hợp tác xã đã xây dựng được 04 đại đội dân quân luôn sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Thời gian này nhiều đơn vị bộ đội chủ lực đã về đóng trên địa bàn, nhân dân đã nhường nhà cho các đơn vị đóng quân. Các tổ chức như đoàn thanh niên, hội phụ nữ, mẹ chiến sỹ đã thường xuyên thăm hỏi, động viên các chiến sỹ, gắn kết tình quân với dân.

Để khẳng định quyết tâm đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nhân dân Thanh Hương đã tham gia nhiều phong trào thi đua sôi nổi như: thanh niên có phong trào “Ba sẵn sàng”; phụ nữ có phong trào “Ba đảm đang”; các cụ phụ lão có phong trào “Trẻ xông pha, già mẫu mực”, động viên con cháu tòng quân, sẵn sàng chiến đấu và hăng hái sản xuất. Các em nhỏ có phong trào “Nuôi gà chống Mỹ”. Toàn dân có phong trào “Sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi”, “Vững tay cày, chắc tay súng”. Các phong trào diễn ra mạnh mẽ, thu hút nhiều giai tầng trong xã hội tham gia, có nhiều thanh niên viết tâm thư bằng máu để xin đi bộ đội để đánh giặc…

Công tác xây dựng Đảng: Chiến tranh càng ác liệt, vai trò của đảng viên càng nêu cao. Năm 1967, toàn xã có 121 đảng viên trong đó có 104 nam, 17 nữ, phân bố ở 04 chi bộ. Chi bộ Hương Trung có 67 đồng chí, Chi bộ Hương Tân có 18 đồng chí, Chi bộ Hương Tiến có 25 đồng chí, Chi bộ Hương Hòa có 11 đồng chí. Tỷ lệ lãnh đạo đạt trung bình mỗi đảng viên lãnh đạo 03 hộ trên 20 nhân khẩu.

Thực hiện kế hoạch Đại hội Đảng bộ cấp cơ sở của Huyện ủy Thanh Chương, tháng 3/1967, Đảng ủy tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 1967-1969, tại Hương Hòa với tham dự của 110 đồng chí đảng viên.

Đại hội đã tổng kết về tình hình lãnh đạo thực hiện nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ 1966-1967. Đại hội đánh giá mặc dù thời tiết không thuận lợi, hạn hán, lũ lụt, sâu bệnh diễn ra liên tục, trong hoàn cảnh phải chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của kẻ thù song với tinh thần quyết tâm phấn đấu của Đảng bộ và Nhân dân, nhiều chỉ tiêu sản xuất đạt và vượt mức kế hoạch. Diện tích lúa ngày càng mở rộng; phong trào hợp tác hóa từng bước được củng cố; phong trào thủy lợi có nhiều chuyển biến. Công tác xây dựng lực lượng vũ trang, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu có hiệu quả; công tác động viên tuyển quân đảm bảo cả về số lượng và chất lượng. Vai trò của chính quyền, các tổ chức đoàn thể không ngừng được phát huy...

Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ: Tăng cường đoàn kết trong Đảng bộ và trong Nhân dân, phát huy cao độ tinh thần chống Mỹ cứu nước, tinh thần tự lực cánh sinh, khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của xã. Tập trung xây dựng cơ sở vật chất, đẩy mạnh áp dụng  khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp nâng cao năng suất, sản lượng đáp ứng nhu cầu đời sống cho nhân dân và hoàn thành nghĩa vụ Nhà nước; phát triển tiểu, thủ công nghiệp. Tiến hành tốt cuộc vận động cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật trong các hợp tác xã. Xây dựng lực lượng vũ trang giữ gìn trật tự trị an, bảo vệ sản xuất và đời sống nhân dân, đẩy mạnh phát triển văn hóa, xã hội. Quyết tâm phấn đấu để trở thành một xã sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi, tập trung xây dựng Đảng bộ vững mạnh.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 11 đồng chí, đồng chí Võ Văn Đường được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Nguyên Cần được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Đinh Hữu Trị được bầu làm Trực Đảng. Tháng 8/1968, đồng chí Đinh Hữu Trị được bầu làm Bí thư kiêm Trực Đảng.

Sau đại hội Đảng bộ, Đảng ủy tập trung củng cố, kiện toàn bộ máy chính quyền, các ban, ngành, mặt trận và các tổ chức đoàn thể triển khai thực hiện nghị quyết đại hội, phân công nhiệm vụ cho từng đồng chí đảng ủy viên phụ trách cơ sở.

Lĩnh vực kinh tế: Bước vào thực hiện nghị quyết của đại hội đề ra, Đảng bộ xã gặp rất nhiều khó khăn. Tình hình chiến tranh ngày càng ác liệt, kẻ địch leo thang bắn phá vào địa phương liên tục, gây ra nhiều thiệt hại về người và của cho nhân dân. Vào những tháng cuối năm 1967, máy bay Mỹ tập trung đánh phá gấp 6 lần năm 1966. Thủ đoạn đánh phá cũng thay đổi vừa công kích vào mục tiêu vừa ném bom toạ độ, đánh liên tục cả ngày và đêm. Mục tiêu đầu tiên của máy bay, tàu chiến Mỹ là tăng cường đánh phá giao thông và kho tàng quân sự hòng ngăn chặn việc vận tải hàng hoá của ta vào chiến trường miền Nam. Chúng tập trung đánh dứt điểm và có tính huỷ diệt các vùng xung yếu, dùng thuỷ lôi, bom từ trường, bom nổ chậm đánh liên tục, phong toả cả trên đường bộ và đường thuỷ. Địch sử dụng nhiều phương tiện kỹ thuật quân sự hiện đại, dùng máy bay không người lái trinh sát, chụp ảnh ban đêm thả cây nhiệt đới, máy ngửi mùi… để thăm dò, phát hiện mục tiêu. Trước tình hình đó, Đảng ủy xã có chủ trương di dời dân ra khỏi các vùng trọng điểm đánh phá. Từ đó, 30 hộ dân của làng Thanh Long ở áp dọc sông Trai được chuyển lên ở dọc chân núi Hòn Am.

Trên mặt trận sản xuất, cuộc chiến cũng diễn ra vô cùng căng thẳng và quyết liệt. Máy bay Mỹ tập trung đánh phá, thả các loại bom nổ chậm, bom bi, bắn đạn rốc két, đạn 20 ly xuống đồng ruộng, số lượng bom đạn địch thả xuống trên các cánh đồng gấp 02 đến 03 lần so với năm 1966, có nơi ruộng đất bị bom đạn cày xới biến thành vùng đất hoang. Xã viên mỗi khi ra đồng sản xuất như đi vào một trận đánh lớn. Để đảm bảo sản xuất thắng lợi, Đảng uỷ, chính quyền, chi uỷ, các ban quản trị hợp tác xã đã phải chỉ đạo các đội sản xuất lên kế hoạch bố trí lao động hợp lý. Lực lượng dân quân, đoàn viên thanh niên sản xuất ở những cánh đồng xa, gần các trọng điểm địch hay bắn phá, phụ nữ và những người yếu sức khoẻ sản xuất ở những cánh đồng gần làng. Lực lượng dân quân được bố trí theo từng khu vực sản xuất, vừa sản xuất, vừa sn sàng chiến đấu. Xã viên ra đồng phải có túi thuốc phòng không, cáng cứu thương, cuốc xẻng để cứu người bị nạn, khi địch đánh vào nơi làm việc.

Sự ác liệt của bom đạn vẫn không làm nao núng tinh thần người nông dân. Nông dân vẫn kiên quyết bám đồng ruộng để sản xuất với một quyết tâm lớn: “Địch hoạ, thiên tai càng tăng, nông dân càng hăng say sản xuất”, diện tích gieo trồng lúa, ngô khoai, sắn, đậu… được phủ kín. Năng suất lúa năm 1967 đạt bình quân 3,7 tấn/ha, năm 1968 đạt trên 04 tấn/ha. Tổng sản lượng lương thực đạt trên 450 tấn mỗi năm.

Công tác chăn nuôi được duy trì. Ngoài chăn nuôi ở các hợp tác xã, Đảng ủy đã phát động chăn nuôi ở hộ gia đình đảm bảo sức kéo phục vụ sản xuất và làm nghĩa vụ Nhà nước về thực phẩm cũng như đảm bảo một phần đời sống cho nhân dân… Riêng đàn lợn, năm 1968 đạt 1.100 con, tăng 15% so với năm 1967. Cơ sở vật chất của các hợp tác xã ngày càng được tăng cường. Thực hiện chủ trương của Nhà nước về đưa chăn nuôi trở thành ngành chính, năm 1968, Đảng ủy xã có chủ trương xây dựng trại chăn nuôi trâu bò có quy mô lớn từ vùng Eo Tréo đến Bãi Đường. Để thực hiện, xã đã cho di dời một số hộ dân vùng Hương Hòa đi vùng khác để lấy đất làm nơi xây dựng chuồng trại và bãi chăn thả. Từ đó, tổng đàn trâu bò và các trại chăn nuôi được phát triển hơn so với giai đoạn trước. Năm 1967, toàn xã có 04 trại chăn nuôi, năm 1968 tăng thêm 02 trại, một số trại được xây dựng kiên cố.

Các ngành nghề được duy trì hoạt động; các công trình giao thông, thủy lợi, trường học, trạm xá và công cộng được củng cố đảm bảo cho sinh hoạt và sản xuất, chiến đấu.

Hợp tác xã Mua bán dù phải sơ tán do chiến tranh nhưng đã tăng lượng hàng hoá, mở thêm quầy hàng, theo khu vực để thuận tiện cho dân mua hàng, thu mua nông sản. Kịp thời phục vụ các mặt hàng cho sản xuất và tiêu dùng của nhân dân

Hợp tác xã Tín dụng đã phát huy tối đa chức năng: “Tiền tệ, tín dụng và thanh toán”, huy động tiền gửi trong nhân dân, số dư trên 15.000 đồng, tạo điều kiện về vốn cho vay đối với xã viên các hợp tác xã để phát triển sản xuất.

Lĩnh vực văn hóa - xã hội: Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, Đảng bộ luôn quan tâm đến công tác văn hóa - xã hội. Công tác văn hóa thông tin, truyền thanh bám sát nhiệm vụ chính trị của Đảng, góp phần giáo dục chính trị tư tưởng và nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Ban thông tin văn hóa xã được tăng cường, các hoạt động thông tin cổ động có nhiều tiến bộ hơn trước. Các buổi sinh hoạt văn hoá với hình thức phong phú như văn, thơ, hò, vè, chiếu phim... nội dung lành mạnh, phản ánh chân thực cuộc sống lao động sản xuất và chiến đấu, thường xuyên được tổ chức, phong trào thể dục, thể thao nhằm tăng sức khỏe cho nhân dân được đẩy mạnh.

Phong trào bổ túc văn hóa được duy trì ở cả những nơi chiến sự ác liệt, có tác dụng thiết thực nâng cao trình độ văn hóa cho quần chúng, giúp đẩy nhanh quá trình áp dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất. Giáo dục phổ thông phát triển ở tất cả các cấp học: mẫu giáo, cấp I, cấp II, cấp III. Năm học 1968 so với năm 1967 tăng cả về số lượng và chất lượng học sinh: nhà trẻ, mẫu giáo tăng 11,7%; cấp I tăng 10,9%; cấp II tăng 13%. Phong trào “dạy tốt, học tốt”, xây dựng nhà trường tiên tiến diễn ra sôi nổi, chất lượng giảng dạy, học tập được chú ý và có nhiều tiến bộ. Học sinh Thanh Hương vẫn tiếp nối truyền thống hiếu học, chăm làm của quê hương; với tinh thần “tương thân, tương ái”, con em các gia đình thương binh, liệt sỹ được cả nhà trường, thầy cô và các đoàn thể quan tâm... Đến năm học 1968-1969, trường cấp hai xã Thanh Hương được thành lập từ việc tách ra khỏi trường cấp 2 xã Thanh Lĩnh. Trường do thầy Tùng làm Hiệu trưởng đầu tiên.

Trạm y tế xã được củng cố, tăng cường đội ngũ cán bộ, trong khám chữa bệnh đã kết hợp giữa đông y và tây y, giữa phòng và chữa bệnh có nhiều tiến bộ. Công tác cấp cứu đối với người bị thương do chiến tranh được tiến hành kịp thời, chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ, trẻ em được chú ý. Ba công trình vệ sinh: hố xí, giếng khơi, nhà tắm ngày càng phổ biến. Dịch bệnh ngày một giảm dần, sức khỏe của nhân dân được nâng lên.

Công tác chính sách xã hội được chăm lo, Đảng ủy đã làm tốt công tác động viên các gia đình chính sách, gia đình có công với cách mạng, gia đình thương binh, liệt sỹ, gia đình quân nhân, dân quân, du kích… những người bị thương trong lao động, sản xuất, những gia đình neo đơn, khó khăn…, phong trào “lá lành đùm lá rách” “tương thân, tương ái” được phát động, lan tỏa trong đời sống tinh thần của nhân dân. Trong hai năm 1968-1969, xã đón nhận nhân dân xã Nghi Thiết, huyện Nghi Lộc về tản cư trên địa bàn. Được sự quan tâm của Đảng ủy, chính quyền và người dân, nhân dân Nghi Thiết nhanh chóng ổn định công tác, bắt tay vào sản xuất. Xã đã huy động lực lượng cùng với Nhà nước xây dựng Nhà máy cưa gỗ Nghi Thiết để phục vụ cho việc đóng thuyền vận tải.

Lĩnh vực quốc phòng, an ninh: Trong những năm 1967-1968, cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ đã gia tăng mức độ ác liệt. Chỉ trong 08 tháng đầu năm 1968, tần suất đánh phá đã tăng gấp 06 lần so với năm 1966, lượng bom đạn trong mỗi trận đánh phá cũng tăng nhiều. Đặc biệt nguy hiểm là chúng dùng bom bi (loại bom bi đã bị quốc tế cấm sản xuất và sử dụng) có khả năng sát thương rất lớn để đánh vào các khu dân cư, trận địa phòng không và cả trường học.

Đầu năm 1968, địch tăng cường cường độ đánh phá các mục tiêu của ta, chủ yếu là mục tiêu giao thông vận tải, trên địa bàn xã lúc này có nhiều cơ quan đơn vị đóng ở đây, nên xã Thanh Hương là trọng điểm bị đánh phá của địch. Vì vậy, cuộc chiến đấu bảo vệ của lực lượng phòng không diễn ra liên tục và khẩn trương.

Ngày 30/8/1968, đế quốc Mỹ tiến hành nhiều đợt không kích ác liệt vào các tuyến đường giao thông huyết mạch trên địa bàn các huyện Thanh Chương, Đô Lương, Nam Đàn… Chúng đã vấp phải sự đánh trả quyết liệt của lực lượng phòng không nhân dân ta. Một chiếc máy bay Mỹ trúng đạn bốc cháy nhưng cố vượt qua không phận nước ta để qua bên kia biên giới. Tuy nhiên mọi cố gắng của tên phi công Mỹ đã không thể đạt được, nên đã nhảy dù xuống núi Đại Can, chiếc F4 của không lực Mỹ cũng rơi tại đây. Ngay sau đó, một chiếc trực thăng Mỹ từ Thái Lan tới ứng cứu. Sau ba tiếng đồng hồ, dân quân xã Thanh Hương và cán bộ Huyện đội Thanh Chương tiếp cận vây bắt tên phi công nhưng do núi rừng hiểm trở, tiếp cận dưới làn hỏa lực mạnh của trực thăng Mỹ nguy hiểm và khó khăn, chiếc trực thăng đã giải cứu tên phi công Mỹ. Về phía ta, chiến sỹ dân quân Trần Đình Biên bị trúng đạn địch và đã hy sinh. Ngay sau sự kiện này, thực hiện chỉ đạo của cấp trên, Đảng bộ xã Thanh Hương đã tổ chức kiểm điểm trách nhiệm và thực thi hình thức kỷ luật cách chức Chủ tịch Ủy ban hành chính kiêm Chủ tịch phòng không và lập hồ sơ đề nghị công nhận danh hiệu Liệt sỹ đối với dân quân Trần Đình Biên.

Ban Công an tăng cường các hoạt động bảo mật, phòng gian, tập trung xử lý các vụ việc xẩy ra trên địa bàn, phối hợp với Đoàn Thanh niên thành lập các tổ xung kích tăng cường tuyên truyền vận động nhân dân tuân thủ các quy định về bảo vệ trị an, tố giác tội phạm, đã xử lý 05 vụ với 08 đối tượng.

Công tác xây dựng Đảng: Công tác chính trị tư tưởng, thực hiện cuộc vận động xây dựng Đảng bộ, Chi bộ “4 tốt”, Đảng ủy đã tổ chức học tập, quán triệt kịp thời cho cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức tạo khí thế mới. Cấp ủy từ xã đến thôn đã bám sát địa bàn tăng cường tuyên truyền vận động, giáo dục tinh thần yêu nước, phát huy truyền thống cách mạng vượt qua ác liệt, nguy hiểm thi đua lao động, sản xuất và chiến đấu đã tạo được chuyển biến mạnh mẽ trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.

Công tác tổ chức và đảng viên ngày càng đi vào nề nếp, số quần chúng xông pha bom đạn qua cuộc kiểm nghiệm “lửa thử vàng, gian nan thử sức” đã được giới thiệu kết nạp vào Đảng. Trong gian khổ, hy sinh, nhiều đảng viên luôn tiên phong, gương mẫu trong mọi hoạt động. Đa số đảng viên được giao nhiệm vụ đều sẵn sàng nhận lệnh và hoàn thành xuất sắc cả khi ra tiền tuyến chiến đấu hay phục vụ chiến đấu, nhiều đồng chí đã anh dũng hy sinh.

Việc tập trung xây dựng các cơ sở Đảng “4 tốt” trước hết đưa chi bộ đi vào lãnh đạo chính trị trong từng thôn xóm và hợp tác xã. Cải tiến nội dung sinh hoạt theo hướng tự phê bình và phê bình, đấu tranh thẳng thắn và chân tình với khuyết điểm của từng đồng chí. Kiện toàn các cơ quan lãnh đạo của đảng, chính quyền và các đoàn thể; đề bạt cán bộ trẻ, nữ tiến hành mạnh mẽ công tác phát triển Đảng, trong nhiệm kỳ đã kết nạp được 10 đảng viên.

Công tác kiểm tra: Đảng ủy đã chú trọng công tác kiểm tra, xây dựng kế hoạch toàn khóa, kế hoạch từng năm, tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt động, việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ của cấp ủy từ xã đến các chi bộ, kiểm tra việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ của đảng viên nâng cao ý thức trách nhiệm của các tổ chức đảng và đảng viên. Trong nhiệm kỳ đã kiểm tra được 07 cuộc, xử lý tốt các vụ việc nảy sinh ngay từ cơ sở, ổn định tình hình, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên.

Công tác Dân vận, chiến tranh càng ác liệt, đòi hỏi công tác dân vận phải đi vào chiều sâu và hiệu quả với phương châm gần dân, sát dân cùng nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và địa phương. Chăm lo xây dựng đoàn kết trong nhân dân lấy đoàn kết trong Đảng làm hạt nhân. Quan tâm đến đời sống của người dân, phát động các phong trào tương thân, tương ái, lá lành đùm lá rách, tình làng, nghĩa xóm được nâng lên.

Trải qua cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ (1965-1968), Thanh Hương là một địa bàn trng điểm đánh phá ác liệt của đế quốc Mỹ, Đảng bộ xã đã lãnh đạo nhân dân bám trụ kiên cường, không những chú trọng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, mà cả trong sản xuất, chăm lo đời sống người dân, làm tròn nghĩa vụ Nhà nước, làm tốt công tác phòng không nhân dân với tinh thần “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, đưa phong trào địa phương phát triển toàn diện từng bước vững chắc. Đảng bộ đã dựa vào dân, vào tình hình đặc điểm của địa phương và xác định tư tưởng dù chiến tranh phá hoại hay chiến tranh cục bộ ác liệt đến đâu, Đảng bộ và Nhân dân vẫn quyết tâm “một tấc không đi, một ly không rời” cùng với toàn huyện Thanh Chương vững vàng bước tiếp trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, cùng cả nước đi đến thằng lợi.

II. LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THAM GIA KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÂY DỰNG HẬU PHƯƠNG, GÓP PHẦN ĐÁNH THẮNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ HAI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (1969 - 1972)

Ngày 01/11/1968, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn, tuyên bố chấm dứt ném bom ở miền Bắc và ngồi vào đàm phán với Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Pa-ri. Tuy buộc phải ngừng ném bom nhưng đế quốc Mỹ không ngừng tăng cường phá hoại an ninh chính trị ở miền Bắc và tăng cường chiến tranh ở miền Nam với nhiều chiến lược mới như “Việt Nam hoá chiến tranh”. Để bảo vệ miền Bắc, tiếp tục chi viện cho miền Nam đánh thắng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ đòi hỏi hậu phương lớn miền Bắc phải nỗ lực gấp bội, tranh thủ thời cơ, khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, tăng cường lực lượng cho cách mạng miền Nam.

Thực hiện kế hoạch Đại hội cấp cơ sở của Huyện ủy Thanh Chương, tháng 3/1969, Đảng ủy xã Thanh Hương tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 1969-1971, tại Hương Hòa với sự tham gia của 117 đảng viên.

Đại hội đánh giá, mặc dầu chiến tranh ác liệt nhưng trên mặt trận sản xuất nông nghiệp đã cơ bản hoàn thành kế hoạch đề ra, diện tích gieo trồng đạt trên 98%, năng suất tăng so với nhiệm kỳ trước 5%. Đã hoàn thành các chỉ tiêu Nhà nước về lương thực và thực phẩm. Hoạt động trên lĩnh vực văn hóa - xã hội tiếp tục được duy trì và ổn định. Lực lượng vũ trang đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến đấu và bảo vệ trị an cũng như phối hợp với các ngành thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương. Hoạt động của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể đi vào nề nếp phát huy cao độ trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức triển khai thực hiện đạt hiệu quả cao trên tất cả các lĩnh vực, cơ bản hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.

Đại hội cũng nghiêm túc kiểm điểm, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn có những hạn chế, yếu kém cần khắc phục như, trong triển khai nhiệm vụ một số chi bộ còn lúng túng thiếu nhạy bén, linh hoạt, một số cán bộ, đảng viên thiếu quyết tâm ngại khó, ngại khổ, một bộ phận nhân dân còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại… gây ảnh hưởng lớn đến phong trào chung của toàn xã.

Đại hội đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong nhiệm kỳ mới: Phát huy tinh thần và sức mạnh đoàn kết, động viên toàn Đảng, toàn dân phát huy thắng lợi, khắc phục khó khăn, nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, không trông chờ ỷ lại. Nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi, sn sàng chi viện cho tiền tuyến với tinh thần “thóc không thiếu 1 cân, quân không thiếu một người”, luôn luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh, sn sàng phục vụ chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống, làm tốt công tác bảo vệ trị an. Đồng thời tranh thủ thời cơ thuận lợi đẩy mạnh khôi phục và phát triển kinh tế, chú trọng giải quyết lương thực, thực phẩm đủ ăn và hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước. Ra sức phát triển các nghề phụ: mộc, sơn tràng, các dịch vụ khác tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, tăng tích luỹ cho hợp tác xã. Chú trọng công tác xây dựng Đảng, xem đây là nhiệm vụ then chốt của cả nhiệm kỳ, xây dựng chính quyền và mặt trận, đoàn thể vững mạnh.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 11 đồng chí, đồng chí Nguyễn Văn Sỹ được bầu làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Đinh Hữu Trị được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Lê Xuân Huy[32] được bầu làm Trực Đảng.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang bước vào giai đoạn quyết định thì nhân dân ta phải chịu một tổn thất vô cùng to lớn. Vào lúc 9 giờ 47 phút ngày 02/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từ trần tại Hà Nội. Trong tuần lễ để tang Bác Hồ, tại hội trường Hợp tác xã Hương Trung, Đảng ủy, Ủy ban hành chính, Mặt trận Tổ quốc xã Thanh Hương đã long trọng tổ chức Lễ truy điệu Bác. Hàng ngàn người dân toàn xã với mọi lứa tuổi đã kính cẩn nghiêng mình vĩnh biệt Bác kính yêu trong niềm tiếc thương vô hạn. Ngoài ra, nhân dân còn lập bàn thờ Bác ở những nơi trang trọng nhất của gia đình mình.

Sau lễ truy điệu Bác Hồ, thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ, Huyện uỷ, Đảng uỷ xã đã tổ chức cho đảng viên, cán bộ và nhân dân học tập Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và 5 lời thề danh dự của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đọc tại lễ truy điệu Người. Biến đau thương thành hành động cách mạng. Đảng bộ và Nhân dân xã Thanh Hương ghi sâu lời Bác dặn, nguyện thực hiện “Sống chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”.

Lĩnh vực kinh tế: Sau đại hội Đảng bộ, các hợp tác xã cũng được kiện toàn, sáp nhập lại để phù hợp với tình hình mới. Hợp tác xã Hương Trung, Hương Tân, Hương Tiến sáp nhập lại thành Hợp tác xã Hòa Quân do ông Võ Văn Hùng làm Chủ nhiệm, ông Nguyễn Văn Thành làm Phó Chủ nhiệm.

Trên đồng ruộng, xã viên các hợp tác xã nông nghiệp cùng với công binh, dân quân tổ chức thu gom, rà phá bom đạn còn sót lại. Với tinh thần lao động khẩn trương trong một thời gian ngắn, nhân dân xã cùng với nhân dân trong toàn huyện đã rà phá được hàng trăm quả bom nổ chậm, san lấp được hàng trăm ha ruộng đất.

Trong sản xuất nông nghiệp, hợp tác xã đã chú trọng nhiều hơn việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật: xử lý giống, cấy thẳng hàng, nuôi bèo hoa dâu, bón phân đúng kỹ thuật, đặc biệt là đưa giống mới Nông nghiệp 8 có năng suất cao vào gieo cấy trên diện rộng. Năm 1970, tổng diện tích gieo trồng đạt 560 ha vượt kế hoạch đề ra 10%. Trong đó cây lương thực tăng 11,7%, cây thực phẩm tăng 2% so với kế hoạch. Trong số 07 chỉ tiêu gieo trồng, có 04 chỉ tiêu vượt kế hoạch như lúa, ngô, khoai, cây thực phẩm. Riêng lúa năm 1970 đạt 105% kế hoạch, so với năm 1969 tăng 1,8%. Về năng suất các loại cây trồng chính như lúa, ngô, khoai, sắn, cây thực phẩm đạt và vượt kế hoạch. Tổng sản lượng quy thóc năm 1970 là 650 tấn.

Đối với chăn nuôi: Thực hiện chủ trương của huyện đẩy mạnh chăn nuôi bù lại những tổn thất do chiến tranh để lại đưa chăn nuôi phát triển ngang năm 1965. Các cấp ủy Đảng và hợp tác xã nông nghiệp đã xây dựng kế hoạch, phát động quần chúng và xã viên tự lực giải quyết khó khăn về giống, thức ăn, chuồng trại để chăn nuôi. Vì vậy trong giai đoạn này, chăn nuôi của xã được phục hồi và đi vào phát triển. Năm 1970 xã có đàn trâu là 221 con, đàn bò có 306 con, đàn lợn có 900 con, đàn gia cầm có 15.000 con.

Lâm nghiệp của xã được phục hồi, các tổ sơn tràng đã tích cực khai thác gỗ và các lâm sản khác nộp đủ nghĩa vụ cho Nhà nước. Thời gian này các hợp tác xã có thêm phong trào ươm cây để trồng. Trong 02 năm 1969-1970, toàn xã Thanh Hương đã trồng được trên 02 vạn cây. Thanh Hương là đơn vị khá của huyện Thanh Chương về phát triển lâm nghiệp.

Tiểu thủ công nghiệp có nhiều khó khăn vì một lúc phải tập trung vừa xây dựng, vừa củng cố và đầu tư phát triển. Để kịp thời phục vụ cho nhu cầu sản xuất và ổn định đời sống nhân dân, Đảng bộ xã có chủ trương sắp xếp lại lao động, tìm thêm nguồn vốn, khai thác nguyên vật liệu tại chỗ để khôi phục và phát triển sản xuất.

Về xây dựng cơ bản: Để hạn chế sự tàn phá ác liệt của chiến tranh, cấp ủy đã chỉ đạo xây dựng, củng cố lại hệ thống công sự, hầm hào phục vụ chiến đấu và ẩn trú. Bên cạnh đó, để đảm bảo nguồn nước cho sản xuất, xã đã huy động nhân dân xây dựng một số công trình thủy lợi. Đập Đá Đen là công trình thủy lợi lớn của xã trong giai đoạn này. Do đòi hỏi nhân công lớn nên xã đã đề nghị huyện hỗ trợ, từ đó Ủy ban hành chính huyện có chủ trương điều động nhân dân các vùng lân cận tới giúp đỡ xã Thanh Hương hoàn thành công trình này.

 Bên cạnh khôi phục, củng cố, phát triển sản xuất, Đảng ủy xã tiếp tục chỉ đạo công tác kiện toàn, củng cố các hợp tác xã nông nghiệp. Sau kiện toàn, hợp tác xã đã đi vào hoạt động có hiệu quả hơn, các phương án sản xuất, bình công, chấm điểm được rõ ràng và dân chủ hơn. 98% số hộ nông dân vào hợp tác xã. Hợp tác xã chuyển lên bậc cao, xã viên được tham gia học tập điều lệ mới của hợp tác xã bậc cao và Nghị quyết số 197 về cuộc vận động nâng cao quyền làm chủ tập thể của quần chúng, cuộc vận động chấn chỉnh 3 khoán trong các hợp tác xã (khoán diện tích năng suất, khoán chi phí và công lao động) nên đã tạo không khí thi đua mới trong nhân dân, nhiệt tình hăng say lao động, từng bước đưa hợp tác xã phát triển. Trình độ quản lý, phong cách chỉ đạo của cán bộ hợp tác xã cũng được nâng lên.

Hợp tác xã Mua bán giai đoạn này được củng cố, kiện toàn lại đội ngũ cán bộ. Hợp tác xã mua bán đã trở thành bệ đỡ cho công tác phân phối, lưu thông, tạo nguồn hàng để thúc đẩy sản xuất phát triển hơn.

Trong điều kiện chiến tranh ác liệt nhưng Hợp tác xã Tín dụng vẫn duy trì được các hoạt động, chủ yếu là huy động tiền gửi tiết kiệm trong nhân dân đã huy động được 5.000 đồng. Số tiền gửi tiết kiệm góp phần vào việc huy động nguồn vốn của Nhà nước để  hỗ trợ sản xuất nâng cao đời sống…

Lĩnh vực văn hóa - xã hội: Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin tuyên truyền được chú trọng. Phong trào văn hóa, văn nghệ được duy trì và phát triển, nhiều bài hát, các vở kịch được sáng tác và biểu diễn tạo nên không khí mới trong đời sống tinh thần của nhân dân. Công tác tuyên truyền được triển khai sâu rộng, tập trung tuyên truyền về chính sách, chủ trương của Đảng, Nhà nước của địa phương, về âm mưu thủ đoạn của đế quốc Mỹ, về gương người tốt, việc tốt, về các phong trào cách mạng mới, tạo động lực thúc đẩy các phong trào thi đua yêu nước phát triển.

Đối với giáo dục: Các trường cùng phụ huynh đã tu sửa lại các phòng học để đảm bảo cho con em tới trường học tập. Các lớp học vỡ lòng được duy trì ở các đội sản xuất của hợp tác xã, trường cấp 1 và cấp 2 đã huy động các em trong độ tuổi đến trường học tập đầy đủ. Năm 1969, để đảm bảo an toàn cho học sinh và giáo viên, trường cấp 2 của xã chuyển lên vùng an toàn hơn. Chất lượng dạy và học ở các cấp được nâng lên, dù đời sống của giáo viên còn gặp nhiều khó khăn nhưng tinh thần yêu trẻ, yêu nghề đã giúp các giáo viên vượt qua được các khó khăn để đưa con chữ tới cho học sinh.

Về y tế: Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe và điều trị bệnh cho nhân dân được trạm y tế làm tốt. Các phong trào vệ sinh, xây dựng nhà tắm, hố xí hai ngăn được đông đảo người dân hưởng ứng. Các dịch bệnh trong giai đoạn này bị đẩy lùi. Đội ngũ cán bộ trạm y tế được đi học bổ túc để nâng cao trình độ trong việc khám và điều trị cho người dân, tiếp tục làm tốt công tác cứu thương. Trong nhiệm kỳ đã khám và điều trị cho trên 1.000 lượt người.

Công tác chính sách xã hội được xã hết sức quan tâm. Đặc biệt là công tác chính sách hậu phương quân đội, chăm sóc nuôi dưỡng những gia đình có công với cách mạng, những nạn nhân chiến tranh, người già không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi… động viên các gia đình có quân nhân tại ngũ và thanh niên lên đường nhập ngũ.

Lĩnh vực quốc phòng, an ninh: Dù tạm ngừng chiến tranh phá hoại của Mỹ nhưng Đảng bộ vẫn luôn luôn quan tâm đến công tác quốc phòng. Phong trào xây dựng lực lượng dân quân vững mạnh được thực hiện thường xuyên. Tính đến năm 1970, 100% hợp tác xã xây dựng được lực lượng dân quân đủ tiêu chuẩn. Tính đến năm 1970 lực lượng dân quân của xã đạt tỷ lệ 18%, tỷ lệ đảng viên trong lực lượng dân quân chiếm 11%, tỷ lệ đoàn viên chiếm 89%. Phụ trách dân quân ở từng đơn vị đều do một đồng chí cấp ủy được phân công phụ trách và đều được tham dự các lớp bồi dưỡng về kỹ thuật, chiến thuật và chỉ huy. Công tác tuyển quân vẫn phát huy được truyền thống qua nhiều năm, đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu cấp trên giao. Công tác phòng không được duy trì thường xuyên, như công tác luyện tập các phương án tác chiến, xây dựng các đội chuyên củng cố hệ thống hầm hào, trận địa vẫn được lực lượng dân quân thường xuyên huấn luyện và chuẩn bị sẵn sàng. Công tác bảo vệ an ninh được duy trì tốt, giữ vững được trật tự trị an ở trên địa bàn. Bảo vệ an toàn tuyệt đối về tài sản của Nhà nước và nhân dân.

Với một khối lượng bom, đạn Mỹ trút xuống gây nên nhiều nguy hiểm cho nhân dân trong sản xuất nông nghiệp, để giải quyết được vẫn đề nan giải này, chính quyền xã đã thành lập một đội rà phá bom mìn, đội đã phối hợp với lực lượng bộ đội công binh và các xã viên hợp tác xã tham gia rà phá, tháo gỡ. Trên các cánh đồng của xã còn sót lại hàng trăm quả bom nổ chậm, bộ đội công binh và đội rà phá đã tháo gỡ được cơ bản.

 Để chủ động đối phó với những phản ứng liều lĩnh của địch, Đảng ủy đã tổ chức quán triệt, triển khai cho nhân dân các phương án chiến đấu. Phong trào “Toàn dân bàn việc nước, toàn dân đánh giặc”, diễn ra sôi nổi. Lực lượng dân quân bàn cách đánh địch, củng cố các trận địa phòng không. Nhân dân tập trung tu sa, làm mới hầm hào, dân quân làm công sự chiến đấu.

Công tác an ninh được tăng cường, Ban Công an đã phối hợp chặt chẽ với các ban ngành tăng cường tuần tra bảo vệ trị an, quản lý tốt nhân khẩu và người vào, ra trên địa bàn, xử lý nghiêm các vụ việc xẩy ra. Trong nhiệm kỳ đã kịp thời xử lý 06 vụ việc, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.

Công tác xây dựng Đảng: Công tác chính trị, tư tưởng luôn được chú trọng, Đảng ủy đã triển khai đợt học tập làm theo Di chúc của Bác một cách nghiêm túc. Qua đợt học tập, mỗi chi bộ, tổ Đảng đều phải liên hệ về sự lãnh đạo của mình và rút ra những điểm mạnh, yếu trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Trên cơ sở đó đề ra phương hướng hành động của cấp ủy và từng cán bộ đảng viên quyết tâm thực hiện bằng được Di chúc của Bác.

Công tác tổ chức, đảng viên: Ngày 06/3/1970, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 195 và mở cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên mới lớp Hồ Chí Minh, đồng thời kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên không còn đủ tiêu chuẩn và tư cách. Cuộc vận động trên bắt đầu được triển khai từ ngày 19/5/1970. Thông qua các đợt học tập và triển khai cuộc vận động chỉnh đốn trong Đảng mà công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ có sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức. Chất lượng đảng viên và vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng cũng được nâng lên một bước. Công tác bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên là một yêu cầu lớn của cuộc vận động. Trong nhiệm kỳ, Đảng ủy đã cử nhiều đồng chí đi học văn hóa tập trung, 05 đồng chí đi học quản lý kinh tế kỹ thuật, 04 đồng chí đi học quản lý hợp tác xã, 03 đồng chí đi học chuyên môn.

Công tác kiểm tra, kỷ luật về chấp hành nghị quyết của Đảng, về nguyên tắc xây dựng Đảng, về ý thức tổ chức kỷ luật, về phẩm chất đạo đức cách mạng của đảng viên và kiểm tra về tài chính Đảng được triển khai sâu rộng trong Đảng bộ. Qua kiểm tra, toàn Đảng bộ đã xử lý kỷ luật 11 đảng viên từ khiển trách đến khai trừ. Công tác phát triển đảng viên mới luôn được Đảng bộ quan tâm. Với sự triển khai một cách đồng bộ trong công tác xây dựng Đảng được nâng lên một bước. Năm 1970 có 80% chi bộ xếp loại “4 tốt”, 15% chi bộ xếp loại Khá, 5% chi bộ xếp loại Trung bình, không có đơn vị kém.

Công tác dân vận: Tăng cường tuyên truyền phát huy vai trò làm chủ tập thể của cán bộ, đảng viên và nhân dân, tập trung giải quyết tốt các vấn đề vướng mắc trong chiến tranh, tạo không khí vui tươi, đoàn kết, xây dựng tình làng, nghĩa xóm giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống, sinh hoạt và lao động sản xuất…

Nhiệm kỳ qua, chiến tranh tàn phá nặng nề, tổn thất lớn lao về sức người, sức của nhưng Đảng bộ và Nhân dân xã nhà vẫn kiên định, vững vàng vượt qua muôn vàn hy sinh, gian khổ phát huy truyền thống quê hương cách mạng bám làng để chiến đấu, bám ruộng để sản xuất “một tấc không đi, một ly không rời” đoàn kết đồng lòng, đồng sức thực hiện thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ đã đề ra, cùng với quân, dân cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, xây dựng lại quê hương giàu đẹp.

Thực hiện kế hoạch Đại hội cấp cơ sở của Huyện ủy Thanh Chương, tháng 3/1971, Đảng ủy xã Thanh Hương tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 1971-1973 tại Hòa Quân, với sự tham gia của 127 đảng viên.

 Đại hội đánh giá, nhiệm kỳ qua Đảng bộ và Nhân dân xã nhà đã vượt qua nhiều gian khổ hy sinh để giành thắng lợi lớn trên các mặt kinh tế, từng bước ổn định đời sống cho người dân, văn hóa - xã hội được quan tâm đúng mức, quốc phòng, an ninh được giữ vững. Chính quyền, mặt trận và các đoàn thể vững vàng trong lửa đạn, luôn tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị. Qua chiến đấu Đảng bộ đã trưởng thành xứng đáng là niềm tin yêu của nhân dân.

 Đại hội cũng nghiêm túc đánh giá, bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém như trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể có lúc vẫn chưa theo kịp nhiệm vụ; tính tiền phong, gương mẫu của một số cán bộ, đảng viên còn hạn chế, các phong trào thi đua chưa thường xuyên.

Đại hội xác định phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ là: Động viên toàn Đảng, toàn dân ra sức phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, tự lực cánh sinh, nỗ lực phấn đấu tập trung chi viện cao nhất sức người, sức của cho tiền tuyến. Luôn luôn nâng cao cảnh giác, xây dựng lực lượng, sẵn sàng chiến đấu. Đồng thời ra sức tranh thủ thời cơ thuận lợi, đẩy mạnh và khôi phục phát triển kinh tế, trọng tâm là lương thực, thực phẩm, theo hướng toàn diện đi vào thâm canh, chuyên canh và sản xuất lớn. Phát triển chăn nuôi, đưa chăn nuôi thành ngành chính. Đẩy mạnh sản xuất tiểu thủ công nghiệp, tăng thu nhập, đảm bảo cải thiện đời sống nhân dân. Chú trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể vững mạnh.

Đại hội bầu 11 đồng chí vào Ban Chấp hành, đồng chí Đinh Văn Khả được bầu làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Võ Văn Đường được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Đinh Hữu Trị được bầu làm Trực Đảng. Tháng 3/1972 đồng chí Lê Xuân Huynh được bầu làm Trực Đảng.

Sau đại hội, Đảng ủy tập trung củng cố, kiện toàn bộ máy chính quyền, phân công nhiệm vụ cho từng đồng chí đảng ủy viên xuống cơ sở để thực hiện tốt nghị quyết của Đại hội Đảng bộ đề ra, từ đó đã giành được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực.

Lĩnh vực kinh tế: Bước vào thực hiện nghị quyết đại hội Đảng các cấp đề ra, đầu nhiệm kỳ gặp rất nhiều khó khăn do thời tiết khắc nghiệt, rét đậm, hạn, hán kéo dài, hậu quả chiến tranh để lại nặng nề. Thực hiện Nghị quyết số 19 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về cuộc vận động: “Tăng cường và cải tiến sự lãnh đạo của Đảng, phát huy quyền làm chủ của quần chúng, tiến hành 03 cuộc cách mạng ở nông thôn nhằm từng bước đưa nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, thực hiện quy vùng, chuyên canh, thâm canh, đưa chăn nuôi lên thành ngành chính với 03 mục tiêu trong nông nghiệp: 01 lao động phải bảo đảm 1,2 ha gieo trồng, 05 tấn thóc, 03 đầu gia súc. Mặc dù trong điều kiện địch đánh phá ác liệt, cuối năm bị hai trận lụt lớn, trên 40% lao động trong các hợp tác xã phải thường xuyên tập trung cho việc phục vụ công tác phòng không, đảm bảo giao thông vận tải và một số lao động khoẻ được điều động đi phục vụ các chiến dịch dài ngày. Nhưng do quán triệt tốt về mặt tư tưởng và được sự chỉ đạo cụ thể của Huyện uỷ, chỉ trong một thời gian ngắn đã triển khai tốt cuộc vận động. Từ đó, xã Thanh Hương đã hoàn thành một bước về quy vùng chuyên canh. Việc phân chia ruộng đất trong hợp tác xã để sản xuất theo lối “có tốt, có xấu, có xa, có gần” đã được xoá bỏ. Thời gian này huyện Thanh Chương đã cho đội máy cày về hỗ trợ xã Thanh Hương để quy hoạch lại đồng ruộng. Từ đó, ruộng đất được quy hoạch phân vùng, bước đầu đã hình thành được các vùng chuyên canh cây, con hợp lý. Nhờ có sự quan tâm của các cấp, xã đã động viên bà con xã viên áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào thâm canh, tập trung khai hoang, phục hóa mở rộng diện tích gieo trồng các loại hoa màu như: lúa, khoai, sắn, lạc, vừng, đậu, rau các loại. Tổng sản lượng đạt trên 700 tấn, tăng so với nhiệm kỳ trước 5%.

Lâm nghiệp, một trong những lĩnh vực kinh tế của địa phương, Đảng ủy chỉ đạo chặt chẽ giữa khai thác bảo vệ và trồng mới.

Chăn nuôi: Thực hiện chủ trương của Nhà nước về đưa ngành chăn nuôi trở thành ngành chính, từ đó Đảng ủy xã đã lãnh đạo chính quyền và các hợp tác xã quy hoạch lại ngành chăn nuôi, mở rộng vùng chăn thả, làm thêm lán trại, bổ sung thêm nguồn nhân lực cho các trại. Chính vì vậy nên các trại chăn nuôi được củng cố và mở rộng, chú trọng tăng số lượng tổng đàn và chủng loại, khuyến khích các hộ gia đình chăn nuôi trâu bò cho hợp tác xã. Tổng đàn trâu bò có trên 600 con, đàn lợn trên 1.000 con, đàn gia cầm có trên 15.000 con. Gia súc, gia cầm của xã đã đảm bảo sức kéo, hoàn thành nghĩa vụ Nhà nước và đáp ứng một phần thực phẩm phục đời sống người dân.

Các ngành nghề được quan tâm phát triển, các tổ mộc, nề đi vào hoạt động phục vụ việc tu sửa, làm mới nhà cửa, các công trình công cộng như nhà kho, trường học…

Xây dựng cơ bản, giao thông, thủy lợi được đầu tư, xã tiếp tục huy động nhân dân làm đập thủy lợi kết hợp với làm đường giao thông phục vụ sản xuất và đi lại cho người dân.

Để phù hợp với tình hình mới, ngay sau đại hội, các hợp tác xã và nông trang trên toàn xã Thanh Hương được hợp nhất. Theo đó, Hợp tác xã Hòa Quân, Hợp tác xã Hương Hòa, Nông trang Hương Quang, Nông trang Hương Hòa được hợp nhất thành Hợp tác xã Thanh Hương do ông Võ Văn Hùng làm Chủ nhiệm, ông Nguyễn Văn Thành làm Phó Chủ nhiệm.

Hợp tác xã Mua bán đã phát huy được vai trò, chức năng của mình trong các hoạt động phục vụ phát triển sản xuấtđời sống nhân dân.

Hợp tác xã Tín dụng thường xuyên được Đảng ủy quan tâm chỉ đạo đã làm tốt công tác huy động vốn của mình để phục vụ sản xuất. Các hoạt động kinh doanh của hợp tác xã hàng năm tổng kết đều có lãi, xã viên gửi tiền cũng yên tâm hơn, kết quả huy động nguồn vốn đạt khoảng 7.500 đồng.

Lĩnh vực văn hóa - xã hội: Các hoạt động văn hoá, xã hội, thông tin tuyên truyền được Đảng uỷ quan tâm chỉ đạo từ tổ chức bộ máy đến nội dung tuyên truyền cổ động. Qua đó đã kịp thời đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước tin chiến thắng ở chiến trường tới mọi người dân. Phong trào văn nghệ, thể dục, thể thao có nhiều chuyển biến, tạo không khí mới trong lao động, sản xuất và chiến đấu.

Về giáo dục: Hệ thống các trường học được tu sửa và nâng cấp đã đáp ứng việc dạy và học. Lúc này các trường đã trở lại môi trường dạy và học bình thường. Phong trào thi đua “Dạy tốt học tốt” được đẩy mạnh, duy trì tốt số lượng học sinh, chất lượng dạy và học được nâng lên, tỷ lệ học sinh giỏi, khá tăng hàng năm từ 10-15%.

Trạm y tế xã được tu sửa, đội ngũ cán bộ y tế được kiện toàn đảm bảo công tác chăm sóc bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân. Công tác vệ sinh môi trường, vận động người dân ăn ở sạch sẽ, đường sá sạch đẹp, ngăn ngừa, dập tắt các dịch bệnh như sốt rét và các dịch bệnh khác. Lực lượng y tế đã kịp thời cứu chữa người bị thương do bom đạn gây ra.

Công tác chính sách xã hội được quan tâm, cấp ủy rà xét lại các hộ gia đình chính sách khó khăn về cuộc sống và nhà ở để kịp thời giao cho các ban, ngành đảm nhận giúp đỡ. Chính quyền luôn động viên nhân dân khắc phục khó khăn, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, chăm lo đến công tác hậu phương, quân đội.

Lĩnh vực quốc phòng, an ninh: Từ cuối năm 1971, quân Mỹ - Nguỵ ở miền Nam liên tiếp bị thất bại nặng nề, nên chúng liều lĩnh mở các đợt đánh phá ra miền Bắc. Trước tình hình đó, Đảng ủy xã chỉ đạo lực lượng dân quân phối hợp cùng các đơn vị bộ đội đóng trên địa bàn sn sàng làm nhiệm vụ. Năm 1971 xã đã giao quân vượt chỉ tiêu.

Phát hiện được cuộc tấn công chiến lược “Mùa xuân năm 1972” của ta, đế quốc Mỹ tập trung một lực lượng lớn máy bay, tàu chiến, bom đạn đánh vào Nghệ An với mức độ ác liệt ngay từ đầu cuộc chiến tranh. Kiên quyết chặn đứng những hành động liều lĩnh của địch, các lực lượng bộ đội địa phương, dân quân phối hợp chặt chẽ với bộ đội phòng không, pháo binh chủ lực trực chiến 24/24 giờ, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ địa bàn, bảo vệ nhân dân. Xã Thanh Hương có vị trí chiến lược quan trọng, có nhiều đơn vị của quân đội đóng trên địa bàn nên là mục tiêu ném bom của giặc Mỹ. Thời điểm này, trên bầu trời của hầu như ngày nào cũng xuất hiện nhiều tốp máy bay, lồng lộn, gầm rú đến ném bom vào các cụm dân cư, tàn phá vườn tược, đất đai trồng trọt.

Sau chiến dịch “Mùa xuân năm 1972, tình hình cách mạng ở hai miền Nam - Bắc nước ta có bước phát triển mới. Đế quốc Mỹ ngày càng rơi vào bế tắc. Chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” có nguy cơ phá sản. Trước tình hình đó, kẻ địch tăng cường các cuộc càn quét, đánh phá ra vùng giải phóng của ta hòng chiếm lại những phần đất đai bị mất. Ở miền Bắc, chúng tăng cường và mở rộng hoạt động đánh phá. Đêm 18/12/1972, đế quốc Mỹ sử dụng hàng loạt máy bay B52 ồ ạt đánh phá Thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng kéo dài suốt 12 ngày đêm.

Công tác an ninh: Xã phát động phong trào bảo vệ an ninh, tăng cường tuần tra, kiểm soát, bảo mật, phòng gian, quản lý người vào ra trên địa bàn. Đồng thời lực lượng công an tập trung xử lý các vụ việc xẩy ra trên địa bàn, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Trong nhiệm kỳ đã xử lý 08 vụ với 13 đối tượng vị phạm.

Công tác xây dựng Đảng: Đảng ủy đã chú trọng triển khai quán triệt và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Đảng cấp trên. Làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, quần chúng, trước các thông tin tuyên truyền của kẻ thù, từ đó niềm tin của nhân dân đối với Đảng tăng lên. Động viên Đảng bộ, Nhân dân và lực lượng vũ trang ra sức thi đua, chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi làm chủ trên các mặt trận quê hương và hướng về miền Nam ruột thịt.

Công tác tổ chức đảng viên: Thực hiện Chỉ thị số 192 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về nâng cao chất lượng đảng viên và bảo vệ Đảng, Đảng ủy tập trung chỉ đạo các chi bộ quán triệt và tổ chức thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 192, tăng cường phân công, phân nhiệm cho cán bộ, đảng viên. Làm tốt công tác tự phê bình và phê bình nâng cao năng lực, sức chiến đấu của đảng viên và tổ chức đảng, chăm lo bồi dưỡng kết nạp đảng. Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ đạt đơn vị “Hoàn thành tốt nhiệm vụ”. Qua bình bầu phân loại đảng viên năm 1972, chất lượng đảng viên tốt tăng 15% so với năm 1971, số đảng viên kém giảm từ 8,3% năm 1971 xuống còn 6,4% năm 1973, số tổ chức kém giảm 31%. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được quan tâm. Trong nhiệm kỳ đã cử 07 đồng chí đi học ở các trường chính trị của huyện và tỉnh.

Công tác kiểm tra giám sát được thực hiện đầy đủ. Đảng ủy đã tổ chức kiểm tra, rà soát lại quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ của các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên, kịp thời uốn nắn các đảng viên có biểu hiện tiêu cực, các chi bộ còn bộc lộ một số hạn chế trong chỉ đạo. Chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm giúp các chi bộ khắc phục trong công tác lãnh đạo. Trong nhiệm kỳ tiến hành kiểm tra 11 cuộc, xử lý 12 đảng viên vi phạm.

Công tác dân vận: Đã kịp thời động viên cán bộ, đảng viên và quần chúng vượt qua gian khổ, ác liệt của chiến tranh, khắc phục những khó khăn, đồng lòng, đồng sức đoàn kết, trước hết là cán bộ đảng viên tiền phong gương mẫu đi đầu trong các phong trào cách mạng, thực hiện khẩu hiệu “đảng viên đi trước làng nước theo sau” quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Sau 12 ngày đêm chiến đấu, quân và dân Hà Nội, Hải Phòng cùng với bộ đội phòng không, không quân đã anh dũng đập tan cuộc tiến công đầy tội ác của kẻ thù, làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không” lừng lẫy, giáng đòn quân sự quyết định đánh đổ ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Ngày 27/01/1973, Mỹ buộc phải ký vào bản Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, rút quân đội ra khỏi Việt Nam, tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta.

Trong hai lần chiến tranh phá hoại, Thanh Hương đã chịu sự tổn thất lớn về người và tài sản, bom, đạn Mỹ đã làm chết và bị thương hàng chục người, trên 500 lượt nhà dân và công trình tập thể bị cháy và phá hủy, 1.000 con trâu bò, lợn bị chết. Chiến tranh tuy đã chấm dứt nhưng hậu quả để lại còn quá nặng nề. Qua 8 năm chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Đảng bộ và Nhân dân xã nhà đã góp một phần sức người, sức của vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta. Qua đó đã khẳng định được bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh của Đảng bộ Nhân dân, nhất là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân là nn tảng vững chắc để vượt qua muôn vàn gian lao, th thách, ác liệt để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

III. LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THAM GIA KHÔI PHỤC KINH TẾ, HÀN GẮN VẾT THƯƠNG CHIẾN TRANH, CÙNG CẢ NƯỚC ĐÁNH THẮNG HOÀN TOÀN GIẶC MỸ XÂM LƯỢC, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1973 - 1975)

Ngày 27/01/1973, Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết. Ngày 28/01/1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi nhân dân cả nước: “Tăng cường đoàn kết, luôn luôn nêu cao cảnh giác, ra sức phấn đấu để củng cố những thắng lợi đã đạt được, giữ vững hoà bình lâu dài, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam, tiến tới hoà bình, thống nhất đất nước.

Để lãnh đạo nhân dân bước vào giai đoạn cách mạng mới, tháng 5/1973, Đảng ủy tổ chức Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 1973-1974, tổ chức tại Hòa Quân, với sự tham gia của 125 đảng viên.

Đại hội đánh giá trong nhiệm kỳ qua, Đảng bộ và Nhân dân đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu, đảm bảo giao thông vận tải; tình hình sản xuất, đời sống của nhân dân ổn định, việc khắc phục hậu quả chiến tranh được Đảng uỷ, ủy ban, các ban ngành, đoàn thể quan tâmCác hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã mua bán đã hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước.

Tuy nhiên, đại hội cũng nghiêm túc kiểm điểm những hạn chế, khuyết điểm trong nhiệm kỳ qua như kinh tế phát triển còn chậm, công tác khắc phục hậu quả chiến tranh còn nhiều khó khăn; hoạt động văn hóa, xã hội có lúc chưa đáp ứng yêu cầu; vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể đôi lúc còn lúng túng nhất là sau ngừng bắn.

Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ của nhiệm kỳ tới: Nêu cao tinh thần cách mạng tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng quê hương phát triển về mọi mặt; luôn luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, xây dựng lực lượng dân quân, lực lượng công an vững mạnh, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội. Trong mặt trận sản xuất, trọng tâm giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm, đưa chăn nuôi lên ngành sản xuất chính. Đẩy mạnh phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, lâm nghiệp nhằm tăng thu nhập, ổn định đời sống cho nhân dân, tiếp túc đóng góp sức người, sức của cho chiến trường miền Nam. Làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần của Trung ương, xây dựng Đảng bộ, Chi bộ đạt “4 tốt”. Xây dựng chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể vững mạnh, nhanh chóng ổn định và đưa các hoạt động của địa phương vào nề nếp.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 11 đồng chí, đồng chí Võ Văn Đường được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Ba được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Tô Thái Định được bầu làm Trực Đảng.

Sau đại hội, Đảng ủy đã phân công trách nhiệm cụ thể cho từng đồng chí đảng ủy viên phụ trách các lĩnh vực, đôn đốc triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội đã đề ra. Đồng thời, chỉ đạo hợp tác xã củng cố kiện toàn lại tổ chức, các đội sản xuất. Tổ chức lực lượng phối hợp với các ngành chức năng rà phá bom, mìn, san lấp hố bom, làm tốt công tác giao thông, thủy lợi phục vụ sản xuất; chú trọng phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh trên địa bàn.

Lĩnh vực kinh tế: Đối với sản xuất, quán triệt Nghị quyết lần thứ 22 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chỉ thị số 208, 209 của Ban Bí thư, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện đã chỉ đạo các Đảng uỷ, các hợp tác xã triển khai tổ chức học tập Điều lệ dự thảo Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc cao và tiến hành đại hội xã viên. Đây là một đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong nông dân, nông thôn. Thực hiện chủ trương của cấp trên, Đảng uỷ xã Thanh Hương đã tích cực chỉ đạo đợt sinh hoạt này nhằm nâng nhận thức cho cán bộ, đảng viên và xã viên hợp tác xã về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong việc tổ chức xây dựng hợp tác xã và hướng phát triển kinh tế đất nước. Từ cuộc sinh hoạt này, cán bộ, đảng viên và quần chúng thấy rng, đây không chỉ là một đợt sinh hoạt chính trị đơn thuần, mà là một cuộc vận động cách mạng lớn trong giai cấp nông dân, nhằm củng cố quan hệ sản xuất mới, thúc đẩy sức sản xuất phát triển. Chính từ đó mà ý thức làm chủ tập thể của cán bộ, đảng viên và xã viên được nâng lên, mỗi người thấy được vai trò, trách nhiệm của mình trong việc xây dựng hợp tác xã, tham gia tích cực và đầy đủ hơn trong lao động sản xuất. Thường vụ Đảng uỷ đã bám sát chủ trương của cấp trên, chỉ đạo Đại hội nông dân tập thể. Qua Đại hội nông dân, đội ngũ cán bộ được chấn chỉnh. Chức năng hoạt động của hợp tác xã được phân định rõ ràng, hình thành được các bộ phận giúp việc, giải quyết được các mặt còn lơi lỏng trong công tác quản lý hợp tác xã. Qua đợt sinh hoạt chính trị, học tập, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân phát huy tinh thần “Hai giỏi”, hăng hái thi đua đẩy mạnh sản xuất, tăng cường củng cố hậu phương và tích cực chi viện cho chiến trường miền Nam.

Trong sản xuất nông nghiệp, tổng diện tích gieo trng hàng năm đều tăng. Hợp tác xã tập trung chỉ đạo xã viên gieo trồng các loại giống lúa có năng suất cao thay cho các giống lúa đã thoái hóa, tiến tới 100% giống lúa mới, chủ yếu là Nông nghiệp 8. Mạnh dạn áp dụng các biện pháp kỹ thuật vào sản xuất với tinh thần thi đua lao động quên mình, phấn đấu đảm bảo diện tích, năng suất sản lượng của kế hoạch đề ra. Năm 1973, tổng diện tích gieo trồng thực hiện được là 400 ha, năm 1974 tăng lên 450 ha, so với kế hoạch vượt 10%, trong đó cây lương thực thực hiện 300 ha, so với kế hoạch vượt 7%. Diện tích cây ngô trồng được 22 ha so với năm 1973 tăng 10%; khoai 43 ha so với năm 1973 bằng 20%, cây lạc 10 ha, vượt 5% so với năm 1973; cây đậu xanh 8 ha so với năm 1973 vượt 2%, cây công nghiệp trồng được 12 ha so với năm 1973 đạt 20%.

Năng suất cây lương thực bình quân đạt 3,5 tấn/ha, năng suất lúa đạt bình quân 4,7 tấn/ha. Năng suất ngô 1,2 tấn/ha, so với năm 1973 tăng 23%; năng suất khoai 3,4 tấn/ha, so với năm 1973 tăng 57%. Tổng sản lượng lương thực đạt 600 tấn, so với kế hoạch vượt 13%, trong đó sản lượng lúa là 450 tấn, so với kế hoạch vượt 15%.

Đánh giá chung nông nghiệp của xã là đơn vị có năng suất cao, liên tục nhiều năm liền đạt 03 mục tiêu trong nông nghiệp. Do vậy, ngoài phần đóng góp cho Nhà nước, hợp tác xã còn có phần tích lũy khá, đời sống của viên được cải thiện, với mức ăn từ 20 đến 21 kg thóc/người/tháng. Tuy vậy, trong nông nghiệp vẫn còn bộc lộ những tồn tại như diện tích canh tác còn chưa tận dụng hết khả năng, tiềm năng, thế mạnh để phát triển nông nghiệp; việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật chưa được coi trọng; công tác quản lý chưa chặt chẽ còn để lãng phí.

Trong chăn nuôi, Đảng ủy đã triển khai nhiều biện pháp nhằm đưa chăn nuôi phát triển lên một bước, ở cả hai khu vực tập thể và gia đình như củng cố hệ thống chuồng trại, đưa giống con mới vào chăn nuôi, làm tốt công tác thú y, tiêm phòng bệnh cho đàn gia súc… Nhờ những biện pháp tích cực như vậy mà chăn nuôi đã duy trì được mức độ ổn định trong điều kiện khó khăn. Trong đó, chăn nuôi gia cầm tăng so với nhiệm kỳ trước là 5%. Thanh Hương là một trong 06 xã điển hình xây dựng được trại chăn nuôi gia súc lớn tập thể[33]. Trại chăn nuôi của xã ở Vũng Lấm đạt tổng đàn hàng ngàn con trâu, bò.

Đi đôi với phát triển sản xuất, Đảng ủy đã chỉ đạo phải từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, khắc phục những hiện tượng tiêu cực, phát huy quyền làm chủ của xã viên, tiến hành phân công lại theo hướng chuyên môn hóa. Đồng thời ổn định quy mô hợp tác xã, hoàn thành các nghĩa vụ đối với Nhà nước.

Phong trào trồng cây gây rừng diễn ra sôi nổi, Đảng ủy chỉ đạo các hợp tác xã tổ chức nhiều tổ xã viên làm nhiệm vụ trồng cây, kết hợp với phong trào “Tết trồng cây” đã thu hút được các tổ chức hội tham gia đông đảo như hội phụ nữ, đoàn thanh niên, hội phụ lão...

Ngành nghề thủ công, tiểu thủ công nghiệp được phát triển. Các tổ mộc, nề, đan lát hăng hái thi đua sản xuất.

Công tác xây dựng cơ bản được chú trọng, các hợp tác xã đã tổ chức san lấp các hố bom, rà phá những quả bom nổ chậm còn sót lại. Cơ quan, trụ sở hợp tác xã được sửa chữa và xây dựng thêm như: hệ thống nhà kho, sân phơi, hội trường, trụ sở làm việc của hợp tác xã. Hệ thống thủy lợi được nâng cấp, giao thông được mở rộng phục vụ cho việc đi lại và sản xuất thuận lợi hơn. Hệ thống trường lớp được tu sửa đảm bảo cho con em đến trường.

Hợp tác xã Mua bán có nhiều hoạt động sáng tạo, mở rộng địa bàn hoạt động, tìm được nhiều nguồn hàng trao đổi, phục vụ sản xuất, tiêu dùng và tiêu thụ sản phẩm của người dân làm ra trên địa bàn.

Hợp tác xã Tín dụng tăng cường công tác huy động vốn và cho vay phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dung của người dân, đến cuối nhiệm kỳ số dư đạt gần 26.000 đồng.

Lĩnh vực văn hóa - xã hội: Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin tuyên truyền có nhiều chuyển biến. Việc phổ biến các thông tin về tình hình trong nước, thế giới, về hiệp định Pa-ri, về các thắng lợi quân sự trên chiến trường miền Nam được cán bộ văn hóa xã làm tốt. Phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao được tổ chức sâu rộng. Các đội văn nghệ quần chúng được luyện tập thường xuyên để biểu diễn vào các ngày lễ lớn, đặc biệt trong dịp ký Hiệp định Pa-ri, xã đã tổ chức một cuộc biểu diễn văn nghệ trên quy mô toàn xã, thu hút đông đảo nhân dân tới xem và cổ vũ.

Đối với giáo dục, các trường học bị bom Mỹ đánh phá lần lượt được xây dựng trở lại và làm mới thêm, cơ sở vật chất cũng được cải thiện một bước. Trong điều kiện hoà bình, cả thầy và trò đều dốc lòng, dốc sức cho việc dạy và học nhằm nâng cao trình độ. Trong những năm 1973-1975, số lượng học sinh, chất lượng giáo dục đã được nâng lên, số học sinh được lên lớp tăng từ 90% lên 94%.

Về y tế, hòa bình lập lại các hoạt động vệ sinh, y tế có điều kiện thực hiện đầy đủ hơn. Đội ngũ cán bộ trạm y tế xã được kiện toàn, công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân được nâng cao một bước.

Chính sách xã hội, công tác hậu phương quân đội được quan tâm. Việc chăm lo cho các gia đình, đối tượng có công được các cấp thực hiện tốt. Vào các dịp lễ, ngày tết, cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể đều đến tặng quà và động viên thăm hỏi kịp thời.

Quốc phòng, an ninh trên địa bàn được giữ vững. Tháng 7/1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 21 vạch ra đường lối hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam. Thực hiện quyết tâm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và nhiệm vụ chính trị của huyện, Thường vụ Huyện uỷ, chỉ thị cho Đảng uỷ phải lãnh đạo nhân dân tập trung đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, củng cố hậu phương.

Về quốc phòng: Đảng uỷ đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục trong các tầng lớp nhân dân, nhất là đoàn viên thanh niên về trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người trong giai đoạn cách mạng mới, tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, hăng hái lên đường chiến đấu giải phóng miền Nam. Hàng năm, xã luôn hoàn thành công tác tuyển và giao quân. Lực lượng dân quân phối hợp với Ban Chỉ huy Quân sự huyện làm tốt công tác rà, phá bom, đạn, đảm bảo an toàn cho sản xuất và sinh hoạt của người dân trên địa bàn.

Về an ninh: Ban Công an xã được củng cố, kiện toàn từ xã đến đội sản xuất, đáp ứng nhiệm vụ mới. Tập trung thụ lý các vụ việc, trong nhiệm kỳ đã giải quyết được 11 vụ gây rối trật tự, trộm cắp tài sản trên địa bàn. Các tổ an ninh đã phát huy trách nhiệm tăng cường tuần tra góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã.

Công tác xây dựng Đảng: Đảng ủy xã đã làm tốt công tác chính trị tư tưởng trong Đảng. Tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện đầy đủ các nghị quyết, chỉ thị, đường lối, chính sách của Đảng và nhiệm vụ trong giai đoạn mới đến tận mỗi đảng viên. Chính từ đó đã nâng cao nhận thức tư tưởng và trách nhiệm của đảng viên trước việc thực hiện các nhiệm vụ; đồng thời kiên quyết đấu tranh chống lại những biểu hiện lệch lạc về tư tưởng: thích sống an nhàn, hưởng lạc, tư lợi cá nhân… tập trung mọi nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, xây dựng lại quê hương.

Công tác tổ chức: Thực hiện Chỉ thị số 192 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về nâng cao chất lượng đảng viên và bảo vệ Đảng được Đảng ủy tổ chức quán triệt và triển khai một cách nghiêm túc trong toàn Đảng bộ. Kịp thời phân công nhiệm vụ cán bộ, đảng viên theo đúng chức năng, nhiệm vụ. Làm tốt công tác tự phê bình và phê bình tập trung xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh. Trong nhiệm kỳ đã kết nạp được 11 đảng viên mới, 80% chi bộ được xếp loại phấn đấu tốt, còn 20% đơn vị chưa tốt, Đảng bộ đạt “Hoàn thành tốt nhiệm vụ”.

Đối với công tác kiểm tra: Đảng ủy đã tăng cường công tác kiểm tra, giám sát theo kế hoạch, kịp thời uốn nắn những hạn chế, khuyết điểm trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm kỷ luật Đảng. Trong nhiệm kỳ đã xử lý kỷ luật 12 đảng viên, trong đó có 09 đảng viên vi phạm Chỉ thị số 192, còn lại 03 đảng viên vi phạm kỷ luật khác, trong đó khai trừ 03, lưu đảng 04, cảnh cáo 04, khiển trách 01. Tăng cường phát huy dân chủ trong Đảng, xây dựng đoàn kết nhất trí trong nhận thức và hành động góp phần xây dựng Đảng bộ vững mạnh.

Công tác dân vận: Đảng ủy đã chú trọng công tác vận động quần chúng. Trước hết mỗi cán bộ, đảng viên gương mẫu đi đầu trong các phong trào, thương yêu giúp đỡ nhân dân, gần gũi với quần chúng tạo ra các phong trào cách mạng trong quần chúng, hướng vào mục tiêu hoàn thành tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ của Đại hội đề ra.

Thực hiện kế hoạch Đại hội Đảng bộ cấp cơ sở của Huyện ủy Thanh Chương, tháng 4/1974, Đảng ủy xã Thanh Hương tổ chức Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 1974-1976 tại Hòa Quân với sự tham dự của 147 đảng viên.

Đại hội đã đánh giá lại tình hình trong nhiệm kỳ qua. Về ưu điểm, sau một năm lập lại hòa bình, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, xã Thanh Hương đã giành được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh cũng như công tác xây dựng Đảng. Về hạn chế, do bị chiến tranh tàn phá nặng nề, cơ sở vật chất của xã còn bị thiếu thốn nên ảnh hưởng lớn tới sản xuất và sinh hoạt của người dân. Việc tổ chức quản lý trong hợp tác xã còn có nhiều bất cập. Chế độ tem phiếu còn nhiều hạn chế gây ảnh hưởng tới đời sống của người dân.

Đại hội đã thảo luận và xác định nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân Thanh Hương trong nhiệm kỳ tới là: Nêu cao tinh thần cách mạng tinh thần làm chủ tập thể để phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, kế hoạch, chỉ tiêu của trên giao. Đẩy mạnh phát triển kinh tế, đảm bảo đời sống cho nhân dân. Đảm bảo quốc phòng, an ninh trên địa bàn, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của địch. Chú trọng phát triển văn hóa, giáo dục, y tế trong tình hình mới. Tăng cường công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể vững mạnh.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 13 đồng chí[34], đồng chí Võ Văn Đường được bầu làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Lê Xuân Huynh được bầu làm Phó Bí thư Thường trực, đồng chí Nguyễn Văn Ba được bầu làm Thường vụ phụ trách chính quyền, đồng chí Tô Thái Định được bầu làm Thường vụ Trực Đảng. Tháng 3/1975, đồng chí Nguyễn Thị Mão được bầu làm Trực Đảng.

Sau Đại hội, Đảng bộ Thanh Hương phát động phong trào thi đua, khơi dậy truyền thống cách mạng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân từ đó giành được nhiều kết quả.

Lĩnh vực kinh tế: Để đảm bảo sản xuất, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, toàn dân dồn sức ra quân làm thuỷ lợi nội đồng, đào đắp tu bổ các hồ đập, kênh mương… Đảng ủy phân công cho Đoàn Thanh niên xã tổ chức đoàn viên làm lực lượng nòng cốt để cải tạo đồng ruộng, khai hoang mở rộng diện tích.

Để có năng suất sản lượng cao hợp tác xã chỉ đạo xã viên áp dụng các biện pháp khoa học kĩ thuật đối với các loại cây trồng. Đối với lúa cần chủ động tốt nguồn nước để chống hạn; đối với hoa màu chú trọng vào việc bón phân, làm cỏ, diệt trừ sâu bệnh để có năng suất cao. Các diện tích đất sản xuất nông nghiệp đều được xã viên tích cực canh tác, cấy hết diện tích lúa nước, những diện tích đất không chủ động được nước chuyển sang trồng màu và cây công nghiệp ngắn ngày như ngô, khoai, sắn, lạc, đậu…

Thực hiện nghị quyết của đại hội Đảng bộ về lĩnh vực chăn nuôi, hợp tác xã đã tổ chức thành lập một trại chăn nuôi có quy mô lớn. Trại được giao một diện tích lớn, với hàng chục nhân công tham gia làm việc. Thành lập trại chăn nuôi nhằm để mở rộng lĩnh vực này, đưa cơ cấu ngành tăng lên, góp phần tăng thu nhập cho hợp tác xã. Đồng thời với chăn nuôi tập thể, chăn nuôi theo hộ gia đình cũng được chú trọng. Xã tổ chức phát động phong trào nuôi 02 con lợn/hộ, được đông đảo xã viên hưởng ứng.

Đối với lâm nghiệp, Đảng ủy có chủ trương vận động người dân chú trọng công tác khai thác và bảo vệ rừng. Những diện tích đất trống đồi núi trọc đều được phát động người dân trồng mới, trồng xen kẽ với các loại cây ăn quả. Từ đó, hơn 15ha đất rừng đã được trồng phủ các loại cây xanh, việc chăm sóc vườn cây được giao cho các cụ phụ lão.

Xây dựng cơ bản: Các trục đường giao thông liên xóm, các kho lương thực của hợp tác xã, trạm y tế, trường học… nhanh chóng được xã viên đóng góp ngày công, vật liệu để tu sửa, góp phần đưa đời sống của nhân dân lên một bước.

Với các nỗ lực của toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân, trong các năm 1973, 1974, 1975, Thanh Hương đã hoàn thành tất cả các chỉ tiêu nghĩa vụ do Nhà nước giao.

Lĩnh vực văn hóa - xã hội: Đảng ủy đã lãnh đạo nhân dân tập trung làm tốt công tác giáo dục, tạo mọi điều kiện giúp đỡ nhà trường sửa chữa lại những phòng học bị dột nát hư hỏng, động viên con em mình vượt qua mọi khó khăn hăng hái đến trường. Các thầy cô giáo thường xuyên bám lớp, bám trường chăm lo giảng dạy và tích cực tham gia các hoạt động của địa phương. Phong trào thi đua “Hai tốt” dấy lên mạnh mẽ trong nhà trường. Chất lượng giáo dục toàn diện của xã được nâng lên rõ rệt.

Công tác khám chữa bệnh cho nhân dân được chú trọng. Trạm y tế được củng cố, tổ chức nhiều cuộc vận động nhân dân phòng, chống dịch bệnh, tiêm phòng cho trẻ em, vận động người dân về việc ăn ở hợp vệ sinh, tất cả các gia đình đều có nhà vệ sinh.  

Lĩnh vực quốc phòng, an ninh: Hòa bình được lập lại ở miền Bắc nhưng công tác quốc phòng, an ninh sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương vẫn thường xuyên được duy trì, củng cố. Công tác tuyển và giao quân hàng năm luôn đạt và vượt kế hoạch trên giao.

Công tác xây dựng Đảng: Đảng ủy xã đã làm tốt công tác chính trị tư tưởng trong Đảng. Tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện đầy đủ các nghị quyết, chỉ thị, đường lối, chính sách của Đảng và nhiệm vụ trong giai đoạn mới đến tận mỗi đảng viên. Chính từ đó đã nâng cao nhận thức tư tưởng và trách nhiệm của đảng viên trước việc thực hiện các nhiệm vụ; đồng thời kiên quyết đấu tranh chống lại những biểu hiện lệch lạc về tư tưởng.

Công tác tổ chức: Đảng ủy tổ chức quán triệt và triển khai một cách nghiêm túc Chỉ thị số 192 trong toàn Đảng bộ. Kịp thời phân công nhiệm vụ cán bộ, đảng viên theo đúng chức năng, nhiệm vụ. Công tác tự phê bình và phê bình được thực hiện tốt, đã góp phần vào việc xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh. Trong nhiệm kỳ đã kết nạp được 09 đảng viên mới, 82% chi bộ được xếp loại phấn đấu tốt, còn 18% đơn vị chưa tốt, Đảng bộ đạt Hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Đối với công tác kiểm tra: Đảng ủy, Ủy ban kiểm tra đã tăng cường công tác kiểm tra, giám sát theo kế hoạch, kịp thời uốn nắn những hạn chế, khuyết điểm trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm kỷ luật đảng. Trong nhiệm kỳ đã xử lý kỷ luật 09 đảng viên, trong đó có 07 đảng viên vi phạm Chỉ thị 192, còn lại 02 đảng viên vi phạm kỷ luật khác, trong đó khai trừ 03, lưu đảng 04, cảnh cáo 01, khiển trách 01.

Công tác dân vận được Đảng ủy xã chú trọng. Công tác vận động quần chúng được đẩy mạnh, mỗi cán bộ, đảng viên gương mẫu đi đầu trong các phong trào, thương yêu giúp đỡ nhân dân, gần gũi với quần chúng tạo ra các phong trào cách mạng trong quần chúng, hướng vào mục tiêu hoàn thành tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.

Ngày 30/4/1975, cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân 1975 với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng, quân và dân ta đã đánh bại đế quốc Mỹ, lật đổ chế độ tay sai, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta thắng lợi vẻ vang, đánh dấu một mốc son chói lọi trong trang sử chống ngoại xâm của dân tộc. Trong chiến thắng chung của cả nước, Đảng bộ và Nhân dân Thanh Hương đã góp một phần công sức vào chiến thắng của dân tộc.

Chặng đường 10 năm (1965-1975), vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa trực tiếp chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và chi viện cho miền Nam, Đảng bộ và Nhân dân xã Thanh Hương đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, giành những thành quả quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương. Trải qua 10 năm chiến đấu, tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể của xã đã không ngừng lớn mạnh và trưởng thành. Đó là nhân tố quan trọng để xã đạt được những thành tựu to lớn trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Trải qua gần 21 năm (1954-1975), dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, cùng với cả nước Chi bộ, Đảng bộ và Nhân dân xã Thanh Hương đã vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ xây dựng quê hương, xây dựng hậu phương ch dựa vững chắc cho tiền tuyến lớn miền Nam, chiến đấu anh dũng và chiến thắng vẻ vang đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đặc biệt trong 10 năm đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại toàn miền Bắc, trên mảnh đất nhỏ hẹp của xã nhà, máy bay Mỹ đã thả xuống một khối lượng bom đạn rất lớn, với hàng ngàn quả bom các loại như bom tấn, bom tạ, bom sát thương, bom bi, đạn rốc két... Gây ra nhiều thiệt hại về người và tài sản cho nhân dân. Trong những năm chiến tranh ác liệt, mặc cho mưa gió, bão lụt, mặc cho bom cày, đạn xới không đêm nào vắng mặt của các chiến sỹ dân quân tuần tra canh gác sn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương, lực lượng công an xã tận tuỵ ngày đêm làm tốt công tác giữ gìn trật tự, trị an trên địa bàn. Đối với tiền tuyến, với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến” chi viện cho miền Nam đánh Mỹ, Đảng bộ Nhân dân xã Thanh Hương hạ quyết tâm làm tốt công tác phục vụ trên mặt trận giao thông vận tải.

Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, toàn xã huy động 262 con em lên đường nhập ngũ, trong đó có 03 gia đình có 03 con đều đi bộ đội, có 38 thương binh, 38 liệt sỹ, 119 thanh niên xung phong hỏa tuyến, 300 dân công đi phục vụ kháng chiến khắp các chiến trường. Nhân dân trong xã đã dành trên 200 nhà ở của mình cho các cơ quan Nhà nước, Quân Khu IV như: kho của Công ty Công nghệ thực phẩm tỉnh Nghệ An; đơn vị bộ đội trong miền Nam ra an dưỡng; Nhà máy gỗ Vinh; Trường Thể dục Thể thao tỉnh Nghệ An; cơ quan lãnh đạo xí nghiệp và Cửa hàng bách hóa huyện Thanh Chương; Nông trường trồng mía Nhà máy đường Sông Lam; Hợp tác xã đóng tàu, thuyền Nghi Thiết; Đoàn văn công Thanh niên xung phong; một số đơn vị đoàn văn công Trung ương; hai đơn vị bộ đội đóng quân làm đường 71...

Với những thành tích nổi bật trên mặt trận sản xuất và chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xã Thanh Hương được Đảng và Nhà nước tặng thưởng 01 Huân chương Chiến công hạng Nhì; 01 Huân chương Lao động hạng Nhì; 50 Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất, 93 Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhì, 228 Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Ba, 252 Huy chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất, 225 Huy chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhì cho những cá nhân có nhiều đóng góp cho cuộc kháng chiến. Hàng trăm Bằng khen, Giấy khen, Cờ của cấp trên tặng cho các đoàn thể và đơn vị của xã.

 

Chương V

ĐẢNG BỘ XÃ THANH HƯƠNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN

THAM GIA CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG 10 NĂM ĐẦU SAU NGÀY THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1976 - 1985)

 

I. LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THỰC HIỆN VÀ HOÀN THÀNH KẾ HOẠCH NHÀ NƯỚC 5 NĂM LẦN THỨ HAI (1976 - 1980)

Đại thắng mùa xuân năm 1975 với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của cả dân tộc. Thắng lợi vĩ đại đó đã tạo ra bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, mở ra một thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam, thời kỳ đất nước độc lập, thống nhất, quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.

Trải qua cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng bộ và Nhân dân xã đã trưởng thành trong công tác lãnh đạo, điều hành, xác định rõ vai trò trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền trước Đảng, trước Nhân dân. Đội ngũ cán bộ, đảng viên được tôi luyện trong chiến đấu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có kinh nghiệm lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.

Tuy vậy, bước vào thời kỳ mới xã cũng gặp muôn vàn khó khăn, thách thức, đó là bước ra khỏi cuộc chiến tranh gần như cơ sở vật chất đã bị tàn phá nặng nề, sức người, sức của cạn kiệt, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới còn gặp nhiều bỡ ngỡ, hậu quả chiến tranh quá lớn. Phát huy những thành tích trong kháng chiến, Đảng bộ và Nhân dân xã nhà quyết tâm khắc phục những khó khăn để thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chính trị mà nghị quyết đại hội đã đề ra. Tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phát động các phong trào thi đua yêu nước, chăm lo sự nghiệp giáo dục, đào tạo, trong đó chú trọng đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến dấu của tổ chức Đảng, trước hết là đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, nâng cao năng suất lao động nhằm ổn định đời sống của người dân, từng bước thay đổi bộ mặt nông thôn.

Thực hiện kế hoạch đại hội cấp cơ sở của Huyện ủy Thanh Chương, tháng 7/1976, Đảng ủy xã Thanh Hương tổ chức Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 1976-1979 tại Hòa Quân, với sự tham gia của 135 đảng viên.

Đại hội đánh giá những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ qua: Về kinh tế, sản xuất nông nghiệp có bước tiến mới, phong trào khai hoang phục hoá bảo đảm các chỉ tiêu đề ra, đạt và vượt, tổng thu về giá trị theo phương án ăn chia của hợp tác xã sản xuất nông nghiệp đạt kế hoạch đề ra. Về khôi phục hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cơ sở hạ tầng, đường sá, trường, trạm có nhiều cố gắng. Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao diễn ra sôi nổi. Giáo dục đào tạo có nhiều khởi sắc; lĩnh vực y tế đã làm tốt công tác khám và chữa trị ban đầu cho người dân. Nhiệm vụ đảm bảo an ninh, trật tự xã hội và nhiệm vụ quốc phòng trên địa bàn được làm tốt. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể được chú trọng.

Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế, nhất là trong công tác tư tưởng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ, một số cán bộ, đảng viên còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại, chưa mạnh dạn bứt phá. Kết quả thực hiện một số nhiệm vụ chính trị còn hạn chế, hoạt động của một số đoàn thể chưa đều, các phong trào phát triển chưa được thường xuyên.

Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ mới đó là: Tổ chức quán triệt và thực hiện tốt Chỉ thị số 208-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tổ chức lại sản xuất trong nông nghiệp và cải tiến quản lý một bước từ cơ sở theo hướng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Tập trung phát triển kinh tế, tổ chức lại sản xuất, cải tiến một bước công tác quản lý trong sản xuất nông nghiệp, hình thành các ngành nghề, chú trọng công tác văn hoá, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, cố gắng giải quyết vấn đề lương thực và thực phẩm, góp phần vào việc ổn định chính trị và trật tự an toàn trên địa bàn xã. Về lương thực phải chú trọng năng suất chất lượng các loại cây trồng, vừa thâm canh, vừa mở mang diện tích. Phát triển mạnh mẽ chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi trồng thủy sản, trồng cây, tích cực khai thác gỗ đạt chỉ tiêu huyện giao. Phát triển văn hóa - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh trên địa bàn. Tăng cường công tác xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận và các tổ chức đoàn thể vững mạnh.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 13 đồng chí, đồng chí Tô Thái Định được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Ba được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Nguyễn Thị Mão được bầu làm Trực Đảng.

Bước vào thực hiện nghị quyết đại hội đề ra, xã Thanh Hương gặp rất nhiều khó khăn như: sự diễn biến thất thường của thời tiết, lụt bão xẩy ra thường xuyên, sâu bệnh diễn ra phức tạp. Trình độ của cán bộ còn nhiều hạn chế, chưa bắt kịp với sự chuyển biến mau lẹ của tình hình mới. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch lại tìm cách bao vây, cấm vận, cô lập cách mạng nước ta, chúng gây ra cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam. Bên cạnh những khó khăn đó, cũng có nhiều thuận lợi lớn như nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng bộ xã; nguồn nhân lực đông đảo; tài nguyên phong phú… Căn cứ vào các nghị quyết của cấp trên và tình hình thực tế của địa phương, Đảng bộ đã đề ra các biện pháp thực hiện nhằm để thúc đẩy sản xuất phát triển, hạn chế những khó khăn, thử thách, phát huy những lợi thế của địa phương, từ đó đã giành được nhiều kết quả trên các lĩnh vực.

Lĩnh vực kinh tế: Quán triệt nghị quyết Đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng bộ xã, Đảng uỷ đã lãnh đạo, quần chúng phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu, thành quyết tâm và sức mạnh trong thời kỳ cách mạng mới, khai thác thuận lợi, khắc phục khó khăn hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân.

Căn cứ vào đề án quy hoạch của huyện, Thường vụ Đảng uỷ đã chỉ đạo Uỷ ban nhân dân xã, hợp tác xã lập quy hoạch phát triển kinh tế, quốc phòng của địa phương đưa lên huyện trình duyệt theo phân cấp quản lý. Thực hiện đề án tổ chức lại sản xuất của huyện, vụ Đông Xuân (1977-1978), hợp tác xã Thanh Hương tổ chức lại sản xuất, phân công sắp xếp lại lực lượng lao động đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - văn hoá trên địa bàn. Trên cở sở phương hướng tập trung, chuyên môn hoá kết hợp kinh doanh tổng hợp, để tổ chức lại các đội chuyên ngành và đội chuyên khâu phù hợp, đảm bảo đội sản xuất đủ mạnh. Tổ chức di dân lên đồi để lấy đất sản xuất như các xóm Thanh Thủy, Thanh Long, Thanh Liên gần 100% hộ gia đình dời lên đồi để nhường diện tích lại cho sản xuất.

Về nông nghiệp, đây là nhiệm vụ quan trọng mang tính quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế và ổn định đời sống nhân dân. Đảng uỷ tập trung xây dựng quy hoạch và kế hoạch, xác định mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp thực hiện, đồng thời tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng nhằm từng bước thực hiện mục tiêu đề ra theo sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện uỷ Thanh Chương. Để tăng diện tích gieo trồng, Đảng uỷ chỉ đạo hợp tác xã tiếp tục phát động xã viên san lấp hố bom, thu lượm, tháo gỡ bom mìn còn sót lại, khai hoang phục hoá các khu đất còn bỏ hoang và cất bốc, quy tập hàng trăm mồ mả nằm rải rác ngoài đồng về khu vực nghĩa địa đã quy hoạch tập trung để lấy đất canh tác. Chính vì vậy, trong những năm 1976-1979, toàn xã đã gieo trồng 535 ha. Trong đó trồng lúa vụ mùa 280 ha, Đông Xuân 150 ha, ngô là 140 ha, sắn 50 ha, khoai lang 42 ha. Năng suất được nâng lên đáng kể, trong đó lúa đạt 14 tạ/ha, ngô đạt 25 tạ/ha, khoai đạt 40 tạ/ha, sắn đạt 40 tạ/ha. Bình quân lương thực trong nhiệm kỳ 17 kg/người/tháng.

Trong chăn nuôi, đàn gia súc, gia cầm của xã tăng cả về số lượng lẫn chất lượng. Trong đó, đàn trâu, bò có trên 1.000 con, đàn lợn khoảng 1.200 con, đàn gia cầm có trên 20.000 con. Hợp tác xã đã đầu tư làm lại hệ thống chuồng trại. Công tác thú y được chú trọng. Ngoài chăn nuôi tập thể, trung bình mỗi hộ cá thể có từ 1-2 con trâu, bò.

Lâm nghiệp là một thế mạnh của xã, nhằm tăng thu nhập cho xã viên, đội sơn tràng được củng cố, bổ sung thêm lao động và một đội trâu bò kéo khỏe mạnh để tập trung khai thác gỗ. Đội đã khai thác được hàng trăm mét khối gỗ, đáp ứng kịp thời các nhu cầu thiết yếu cho sản xuất các mặt hàng dân dụng và kiến thiết xây dựng. Bên cạnh đó, xã cũng đẩy mạnh phong trào trồng cây lấy gỗ, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, phong trào này được phát triển rộng rãi, tiêu biểu là đội trồng cây lưu niên của hội phụ lão.

Thực hiện cuộc vận động khai hoang, phục hóa của huyện Thanh Chương, tập trung ở những xã có diện tích đất đồi, đất rừng nhiều để mở rộng diện tích trồng màu tăng sản lượng lương thực, xã Thanh Hương đã vận động người dân khai hoang mở rộng diện tích, từ đó hàng chục ha cây hoa màu được trồng. Trong đợt vận động này xã Thanh Hương cùng với xã Thanh Ngọc, Thanh Hà, Thanh Lâm, Thanh Mai đã khai hoang được 500 ha, 250 ha trồng sắn[35].

Ngành nghề, tiểu thủ công nghiệp được sắp xếp lại theo mô hình hợp tác hoặc tổ sản xuất đi vào hoạt động có hiệu quả. Một số ngành nghề nhỏ đã hình thành…

Về xây dựng cơ bản, theo chủ trương của tỉnh, xã Thanh Hương đã thành lập đội chuyên thuỷ lợi gần 100 người, độ tuổi từ 18-25, gọi là Đội 202 (theo Chỉ thị số 202 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Nghệ Tĩnh) có nhiệm vụ tham gia xây dựng các công trình thuỷ lợi trong huyện, trong tỉnh. Tháng 10/1976, thực hiện chủ trương của tỉnh và theo chỉ tiêu huyện giao, xã Thanh Hương đã huy động gần 100 người, chủ yếu là thanh niên đi xây dựng công trình thuỷ lợi Vách Bắc ở huyện Yên Thành trong thời gian 01 tháng. Mặc dù thời tiết mưa rét nhưng khí thế ra quân vẫn hết sức sôi nổi. Để đảm bảo sức khoẻ, điều kiện cho anh chị em làm việc, Hợp tác xã nông nghiệp đã bố trí cắt cử một bộ phận chuyển gạo, lợn, bò… làm thực phẩm, phục vụ tận công trường. Năm 1977, xã huy động 250 người tham gia đi làm công trình thủy lợi sông Nghèn. Xã cử người tham gia làm cống Hiệp Hòa ở huyện Đô Lương. Cũng trong giai đoạn này, Thanh Hương huy động nguồn lực của xã, cùng sự giúp sức của Đội 22 huyện Thanh Chương, công trình đập nước Đá Đen được hoàn thành, đập nước Bãi Hàn được nâng cấp. Hai công trình thủy lợi này đã đáp ứng nhu cầu nước tưới cho khu vực Bãi Nhạ, Nhà Trươi, Bãi Hàn… đưa phần lớn diện tích cấy cưỡng có đủ nước thâm canh hai vụ lúa. Đồng thời với xây dựng hệ thống thủy lợi, xã cũng tiến hành quy hoạch lại đồng ruộng, đưa giống lúa mới vào sản xuất, đầu tiên là giống lúa nông nghiệp 8 vào sản xuất. Hoàn thành khoảng 05 km kênh mương đất phục vụ cho việc lấy nước tưới tiêu và 4,5 km đường đất nội đồng phục vụ sản xuất. Năm 1977, toàn xã cơ bản đã hoàn thành việc kiến thiết lại đồng ruộng sau chiến tranh.

Hợp tác xã Tín dụng có nhiều cố gắng trong việc huy động tiền gửi tiết kiệm, trong nhiệm kỳ tổng số dư nợ tiền gửi tiết kiệm đạt 30.000 đồng, tạo nguồn vốn cho các hộ có nhu cầu vay vốn phát triển sản xuất, sửa chữa nhà cửa và các nhu cầu sinh hoạt.

Hợp tác xã Mua bán mạnh dạn bố trí nhân lực mở rộng nguồn hàng phục vụ sản xuất như cày, cuốc, xe ba gác... Doanh thu bình quân năm sau cao hơn năm trước. Làm tốt công tác thu mua sản phẩm nông nghiệp cho người dân.

Lĩnh vực văn hóa - xã hội: Hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao diễn ra sôi nổi. Đội văn nghệ của xã được đầu tư trang phục và đạo cụ để luyện tập, biểu diễn các tiết mục văn nghệ chào mừng các ngày lễ lớn trong năm. Phong trào bóng đá, bóng chuyền được phát triển khắp trong các đội sản xuất. Những trận thi đấu giao hữu thu hút được đông đảo quần chúng tham gia xem và cổ vũ. Phong trào xây dựng đời sống văn hóa mới phát triển sâu rộng trong nhân dân.

Đối với giáo dục đào tạo, xã đã chú ý phát triển quy mô và chất lượng dạy học. Theo chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng giáo dục phổ thông hệ 10 năm có 02 bậc học là phổ thông cấp 1 và cấp 2. Trường cấp 1 và cấp 2 sáp nhập lại thành bậc học phổ thông cơ sở. Để có cơ sở tốt cho việc dạy và học, xã đã đầu tư xây dựng phòng học và nhà làm việc đảm bảo huy động trẻ đến trường. Trong đó, đối với cấp mẫu giáo đạt tỷ lệ trên 93%; cấp 1, 2 đạt tỷ lệ 96%.

Về y tế, công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được quan tâm. Trạm y tế có 04 cán bộ, hệ thống giường bệnh được mua sắm thêm đảm bảo điều trị cho người dân. Hàng năm trạm y tế xã đã khám và điều trị nội trú cho trên 1.000 lượt người. Phong trào vệ sinh, phòng chống dịch bệnh được Nhân dân tích cực hưởng ứng. Công tác kế hoạch hóa gia đình bắt đầu được tuyên truyền vận động thực hiện.

Công tác chính sách xã hội được chú trọng. Việc chăm sóc, quan tâm, thăm hỏi những đối tượng, gia đình có công với cách mạng như thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ được các cấp ủy thường xuyên quan tâm.

Lĩnh vực quốc phòng, an ninh: Đế quốc Mỹ sau thất bại ở Việt Nam, buộc phải rút quân về nước, song với bản chất một tên đầu sỏ quốc tế vẫn cấu kết với bọn phản động quốc tế, thực hiện chính sách cấm vận, bao vây về kinh tế và trực tiếp nuôi dưỡng bọn phản động người Việt lưu vong chống phá cách mạng nước ta với kế hoạch “hậu chiến” rất thâm độc. Ở biên giới Tây Nam tập đoàn Pôn-pốt ở Cam-pu-chia tiến hành chiến tranh biên giới chống phá nước ta. Tháng 2/1979, nhà cầm quyền Bắc Kinh đưa quân xâm lược nước ta, gây ra cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc. Đất nước bị kẻ thù bao vây, cấm vận, gây chiến tranh xâm lược. Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề ra Nghị quyết số 4 và số 5 về đẩy mạnh công tác quốc phòng, an ninh trong tình hình mới.

Thực hiện nghị quyết của cấp trên, Đảng uỷ xã đã tổ chức quán triệt nghị quyết tới mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân toàn xã vừa tập trung đẩy mạnh sản xuất, vừa khẩn trương triển khai nhiệm vụ quốc phòng. Thường vụ Đảng uỷ chỉ đạo xã đội xây dựng lực lượng dân quân đủ số lượng, đảm bảo đủ sức chiến đấu trong mọi tình huống, triển khai chương trình huấn luyện quân sự cho lực lượng dân quân trong hai năm 1978-1979.

Công tác tuyển quân được triển khai nghiêm túc. Năm 1978, trước chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra, xã đã tuyển 23 thanh niên lên đường nhập ngũ. Hưởng ứng lời kêu gọi ngày 04/3/1979 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Lệnh tổng động viên ngày 05/3/1979, xã Thanh Hương đã huy động 120 thanh niên lên đường nhập ngũ.

Công tác an ninh, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, trong thời kỳ này diễn biến khá phức tạp. Kẻ địch dùng chiến tranh tâm lý xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, gây hoang mang chia rẽ trong nội bộ. Đảng uỷ đã tập trung chỉ đạo lực lượng công an, dân quân tăng cường công tác tuyên truyền làm rõ các âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ và bọn phản động quốc tế; nắm tình hình kịp thời phát hiện và đập tan các âm mưu của kẻ địch vạch trần những luận điều chiến tranh tâm lý, bảo vệ tốt an ninh, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Trong nhiệm kỳ đã x lý 12 vụ việc, xử lý 25 đối tượng.

Công tác xây dựng Đảng: Công tác chính trị tư tưởng luôn được Đảng ủy chú trọng, thường xuyên quán triệt và thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị, chủ trương, chính sách... của tổ chức Đảng cấp trên sâu rộng trong toàn Đảng bộ. Từ đó đã làm chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của đảng viên. Trong quán triệt tình hình nhiệm vụ mới, các cấp uỷ, chi bộ đã xác định một bước đúng đắn, phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chính trị ở cơ sở mình. Đảng bộ đã tổ chức nhiều cuộc sinh hoạt chính trị trong Đảng bộ để đánh giá, kiểm điểm, tự phê bình và phê bình đảng viên một cách nghiêm túc. Mặt khác còn tổ chức cho quần chúng trực tiếp góp ý và bỏ phiếu tín nhiệm đối với đảng viên. Do đó đã có tác dụng tốt trong công tác giáo dục và rèn luyện đối với đảng viên, đồng thời qua đó giúp chi bộ Đảng phân loại đảng viên một cách chính xác hơn, chọn ra được đảng viên ưu tú, đủ tiêu chuẩn để phát thẻ.

Công tác tổ chức và đảng viên, Đảng ủy đã kiện toàn được đội ngũ cán bộ, từ xã đến các chi bộ thôn, các ban, ngành và các đoàn thể quần chúng. Năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên có một bước tiến bộ rõ rệt.

Thực hiện Chỉ thị số 83-CT/TW ngày 26/11/1978 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc “Phát thẻ đảng viên”, triển khai thực hiện trong 4 đợt: ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02); ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5); ngày Quốc khánh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9); ngày Cách mạng tháng Mười Nga (07/11).

Ngày 08/5/1979, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 72-CT/TW về tăng cường công tác phát triển Đảng, kiện toàn củng cố tổ chức Đảng. Qua triển khai thực hiện, các tổ chức quần chúng đã giới thiệu cho Đảng bộ hơn 10 đoàn viên ưu tú, đi học các lớp đối tượng Đảng. Trong nhiệm kỳ (1976-1979), Đảng bộ kết nạp được 17 đảng viên mới. Thực hiện Chỉ thị số 22 và Chỉ thị số 72 của Ban Bí thư về: “Kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng”, Thường vụ Đảng uỷ đã thông qua các đợt sinh hoạt chính trị, thực hiện phân loại, phát thẻ đảng viên, cảnh cáo, nhắc nhở các đảng viên có dấu hiệu vi phạm đạo đức, phẩm chất đảng viên, giao nhiệm vụ cho đảng viên trung bình, yếu kém, quy định thời gian cụ thể để rèn luyện sữa chữa.

Công tác đào tạo và bồi dưỡng cũng được quan tâm, Thường vụ Đảng uỷ cử 08 đảng viên theo học chương trình lý luận sơ cấp, chương trình quản lý, nghiệp vụ tại trường Đảng huyện do tỉnh mở.

Công tác kiểm tra, Đảng ủy đã xây dựng kế hoạch kiểm tra toàn khóa, hàng năm cụ thể hóa nhiệm vụ để tiến hành kiểm tra, giám sát kịp thời uốn nắn những hạn chế, yếu kém trong thực hiện nhiệm vụ và đôn đốc việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ trong toàn Đảng bộ, trong nhiệm kỳ đã tiến hành kiểm tra đươc 03 tập thể, 08 cá nhân, x lý kỷ luật 06 đồng chí.

Công tác dân vận, Đảng ủy xác định rõ công tác dân vận là nhiệm vụ quan trọng trong mối quan hệ giữa dân với Đảng, cấp ủy luôn đi sâu, đi sát cơ sở, tuyên truyền vận động nhân dân chấp hành và tổ chức thực hiện có hiệu quả chính sách chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước cũng như các quy định của địa phương.

Trải qua 03 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ 1976-1979, Nhân dân xã Thanh Hương đã ra sức phát huy tinh thần đoàn kết, đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, xây dựng cuộc sống mới, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu mà Đại hội lần thứ XII của Đảng bộ đề ra. Để tiếp tục lãnh đạo công tác phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục những khó khăn do hậu quả của chiến tranh để lại.

Thực hiện kế hoạch Đại hội cấp cơ sở của Huyện ủy Thanh Chương, tháng 5/1979, Đảng ủy tổ chức Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 1979-1981 tại Hòa Quân với sự tham dự của 139 đảng viên.

Đại hội đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ trong nhiệm kỳ qua trong đó nhấn mạnh, bước vào thực hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ 1976-1979 xã gặp rất nhiều khó khăn như: điều kiện vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn, lạc hậu, thời tiết khắc nghiệt không thuận lợi cho sản xuất; tỷ lệ hộ đói, nghèo còn cao; ý thức của một bộ phận cán bộ, nhân dân còn có tư tưởng trông chờ ỷ lại. Bên cạnh đó tác động của hai cuộc chiến tranh biên giới đã làm ảnh hưởng đến sự phát triển… Tuy vậy bằng quyết tâm chính trị cao, Đảng bộ và Nhân dân xã đã vượt qua mọi khó khăn vươn lên hoàn thành tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ đã đề ra. Kinh tế - xã hội có bước phát triển, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, khối đại đoàn kết toàn dân được phát huy, vai trò của cấp ủy, chính quyền được nâng lên…

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, xã vẫn còn có những hạn chế như: năng suất còn thấp, giá trị ngày công chưa cao, dẫn đến đời sống nhân dân còn khó khăn; cấp ủy chưa phát huy hết trách nhiệm của mình; một bộ phận cán bộ quản lý còn yếu kém; kinh tế phát triển chậm; giáo dục thì số lượng học sinh bỏ học có xu hướng tăng, một số dịch bệnh đã xuất hiện trên địa bàn.

Về phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ tới Đại hội xác định: Tiếp tục đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp thay đổi giống mới có năng suất cao, áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, chú trọng công tác thuỷ lợi; quản lý và khai thác rừng có hiệu quả. Chú trọng phát triển văn hóa - xã hội. Đảm bảo quốc phòng, an ninh trên địa bàn. Tăng cường công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể, nhất là về tư tưởng và tổ chức.

Đại hội bầu Ban Chấp hành mới gồm 11 đồng chí, đồng chí Tô Thái Định tiếp tục được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Bá Lạc được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Nguyễn Văn Hiệng được bầu làm Trực Đảng. Đầu năm 1980, đồng chí Nguyễn Viết Bảy làm quyền Chủ tịch UBND xã.

Bước vào thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ đề ra, xã nhà gặp rất nhiều khó khăn. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Đảng bộ, sự vào cuộc quyết liệt của chính quyền, hợp tác xã đã trực tiếp chỉ đạo xã viên đẩy mạnh sản xuất để hoàn thành các mục tiêu đã đề ra.

Lĩnh vực kinh tế: Đối với hợp tác xã nông nghiệp, thực hiện Nghị quyết số 19, 20, 22 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc tổ chức lại sản xuất trên địa bàn huyện để đưa từ nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Từ đó, hợp tác xã đã quy hoạch lại ruộng đất, xây dựng các khu chăn nuôi, chuồng trại tập thể, đầu tư tiền để xây dựng các cơ sở như sân phơi, nhà kho để phục vụ sản xuất và thu hoạch.

Về trồng trọt, diện tích gieo trồng cây lương thực năm sau tăng hơn năm trước. Tổng diện tích gieo trồng cây lương thực  năm 1979 đạt 450 ha, năm 1981 đạt 500 ha tăng 50 ha. Mặc dù năm 1980, gặp khó khăn nhiều về thời tiết nhưng vẫn đạt 470 ha, so với năm 1979 đạt 86%, so với kế hoạch đạt 96,1%. Từ việc giữ vững và tăng diện tích gieo trồng, kết hợp với việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật gieo trồng nên năng suất, sản lượng lương thực ngày càng tăng. Tổng sản lượng lương thực quy thóc hằng năm đều đạt khá. Tổng sản lượng lương thực vẫn giữ con số từ 450 tấn đến 500 tấn. Năm 1980, bị bão lụt tàn phá nặng nề nhưng vẫn đạt 460 tấn. Cây màu trong cơ cấu lương thực từ 36% năm 1979 tăng lên 40% năm 1981. Trên một số diện tích thâm canh năng suất cây trồng tăng: lạc 6 tạ/ha; sắn 50 tạ/ha; khoai lang 40 tạ/ha; ngô 11 tạ/ha.

Về chăn nuôi: Đàn lợn năm 1979 là 1.200 con; năm 1980 tăng lên 1.400 con. Đàn bò năm 1979 là 850 con; năm 1980 tăng lên 1.000 con. Đàn trâu năm 1979 là 80 con; năm 1980 tăng 100 con.

Sản xuất lâm nghiệp có nhiều nỗ lực và đã thu được những kết quả tốt. Phong trào trồng cây được đông đảo nhân dân hưởng ứng. Hợp tác xã đã hoàn thành vượt chỉ tiêu 107% kế hoạch trồng rừng được giao, khai thác gỗ vượt 10%. Công tác chăm sóc và bảo vệ rừng có nhiều tiến bộ.

Các ngành, nghề tiểu thủ công nghiệp tiếp tục được mở mang như mộc, hàn, gò, rèn… Đội nghề ở các hợp tác xã được củng cố, các sản phẩm không chỉ đáp ứng nhu cầu của xã viên trong hợp tác xã mà còn cung ứng cho cả nhân dân trong vùng.

Đối với xây dựng cơ bản, trước tình hình hạn hán nghiêm trọng, hệ thống thuỷ lợi chưa phục vụ tốt cho sản xuất nên việc tăng vụ còn bấp bênh, thâm canh còn yếu; diện tích, năng suất sản lượng không ổn định. Thuỷ lợi lúc này là yêu cầu bức thiết, là điều kiện quan trọng hàng đầu để phát triển nông nghiệp. Từ nhận thức đó, Đảng bộ đã phát động chiến dịch ra quân làm thủy lợi, huy động lực lượng toàn dân tham gia, có những lúc lên tới hàng trăm người lao động hăng say, tích cực, khẩn trương. Tuy nguồn vốn và vật liệu xây dựng thiếu thốn, song trong công tác xây dựng đã có nhiều cố gắng tập trung nâng cấp một số trục đường, đắp đường liên thôn, liên xã, mua sắm phương tiện nên các hoạt động giao thông vận tải của xã đã khắc phục khó khăn, vận chuyển kịp thời những mặt hàng thiết yếu. Kết quả của chiến dịch này là hệ thống giao thông, thủy lợi cơ bản đáp ứng được cho nhu cầu sản xuất.

Hợp tác xã Mua bán đã quán triệt và thực hiện đúng Nghị quyết số 26 và Chỉ thị số 409 của Bộ Chính trị về cải tiến công tác phân phối lưu thông nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển do đó phải tập trung sự quan tâm chỉ đạo của Đảng cũng như các đoàn thể quần chúng nhất là từ khi có giá cả thay đổi. Tuy có biểu hiện khó khăn phức tạp nhưng nhìn chung các tổ chức hoạt động phân phối lưu thông vẫn ổn định, phục vụ kịp thời trên mặt trận sản xuất. Trong phân phối, tương đối kịp thời cho từng thời vụ cho xã viên.

Hợp tác xã Tín dụng đã làm tốt công tác huy động vốn của mình, số dư hàng năm đều tăng cao, riêng năm 1980 là trên 50.000 đồng. Đây là nguồn vốn quan trọng giúp cho xã viên có nhu cầu vay vốn để phát triển sản xuất và phục vụ nhu cầu sinh hoạt.

Lĩnh vực văn hóa - xã hội: Hoạt động văn hóa, thông tin được xã chú trọng. Hàng năm vào các ngày lễ lớn, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao đều được tổ chức, thu hút đông đảo nhân dân tham gia cổ vũ. Việc xây dựng nếp sống mới đã được thực hiện, từ đó các hủ tục lạc hậu bị bãi bỏ, các tệ nạn rượu chè, cờ bạc bị lên án.

Giáo dục của xã có nhiều bước phát triển. Cơ sở vật chất trường lớp được tu bổ đảm bảo cho việc dạy và học, chất lượng giáo dục năm sau cao hơn năm trước, trường Mẫu giáo thời kỳ này đã huy động bình quân năm đạt 95% số cháu trong độ tuổi, nhà trẻ đạt 90%. Số học sinh theo học cấp 1, cấp 2 mỗi năm đều tăng.

Về y tế, trạm y tế được tu sửa đảm bảo hơn, số giường bệnh được bổ sung, đội ngũ cán bộ y tế có 05 người. Hưởng ứng các phong trào do ngành y tế phát động, trong nhiệm kỳ qua trạm y tế xã đã có nhiều thành tích như: có trên 80% số gia đình có cây thuốc nam trong vườn; các công trình xây dựng như giếng nước, nhà tắm, nhà vệ sinh được nhân dân thực hiện tốt. Trạm đã làm tốt công tác khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân trên địa bàn. Các dịch bệnh như sốt rét, tả, lị được khống chế tốt, trên địa bàn không phát sinh các ổ dịch bệnh lớn.

Công tác chính sách xã hội được cấp ủy, chính quyền và các ban, ngành quan tâm các gia đình có quân nhân tại ngũ, những gia đình thương binh, liệt sỹ, người có công với các mạng được ưu tiên xét hỗ trợ các chế độ, giúp đỡ khi khó khăn tạo điều kiện ổn định đời sống.

Lĩnh vực quốc phòng, an ninh: Nhận rõ âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch nên Đảng bộ đã chỉ đạo các lực lượng của xã xây dựng đề án trực chiến một cách cụ thể và đảm bảo chương trình huấn luyện của cấp trên.

Lực lượng dân quân hàng năm được huấn luyện chính trị, quân sự nâng cao độ tin cậy đáp ứng nhiệm vụ. Số quân nhập ngũ là 74 người đạt 100% chỉ tiêu, số người thực hiện huấn luyện là 914 người, số bắn đạn thật là 525 người trong đó loại ưu là 07 người, loại giỏi là 154 người, loại khá là 225 người. Công tác biên chế, có 02 đại đội, 13 trung đội và 26 tiểu đội. Xây dựng và củng cố được 07 công sự, trồng được 1.000 cây làm tán. Ngoài công tác chuyên môn của mình các đơn vị, dân quân còn tham gia giải quyết các công việc khác trên mặt trận sản xuất như làm thủy lợi, giao thông, xây dựng củng cố cơ sở vật chất của hợp tác xã. Năm 1980, Đoàn Thanh niên xã đã phối hợp với bộ đội Biên phòng xây dựng cột mốc số 11 qua đỉnh Vũ Trụ. Đường sá xa xôi, cách trở nhưng đoàn thanh niên của xã đã gùi từng bao cát, đá, xi măng để cùng đơn vị bộ đội biên phòng hoàn thành nhiệm vụ. Vì thế trong 03 năm liền (1979-1981) xã luôn đạt loại xuất sắc của huyện.

Ban Công an xã luôn chủ động trong công tác giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Lực lượng công an thường xuyên tổ chức tuần tra, quản lý chặt nhân khẩu, hộ khẩu, kịp thời giải quyết tốt các vụ việc nảy sinh trên địa bàn.

Công tác xây dựng Đảng: Đảng ủy đã tổ chức quán triệt, học tập và tổ chức thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng các cấp. Chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, vận động đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân chấp hành tốt chính sách, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trong quán triệt tình hình nhiệm vụ mới, các cấp uỷ, chi bộ đã xác định rõ phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chính trị ở cơ sở mình.

Ngày 08/5/1979, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 72-CT/TW về tăng cường công tác phát triển Đảng, kiện toàn củng cố tổ chức Đảng. Qua triển khai thực hiện, các tổ chức quần chúng đã giới thiệu cho Đảng bộ hàng chục đoàn viên ưu tú, đi học các lớp đối tượng Đảng. Trong nhiệm kỳ, Đảng bộ đã kết nạp được 15 đảng viên mới. Công tác đào tạo và bồi dưỡng cũng được quan tâm, Thường vụ Đảng uỷ cử 05 đảng viên theo học chương trình lý luận sơ cấp, chương trình quản lý, nghiệp vụ tại trường Đảng huyện.

Đối với công tác kiểm tra, giám sát: Đảng ủy đã xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát của nhiệm kỳ, định kỳ hàng năm. Trong nhiệm kỳ đã tiến hành kiểm tra, giám sát được 17 cuộc, trong đó tập thể là 15, cá nhân là 02. Kịp thời uốn nắn những hạn chế yếu kém trong cán bộ, đảng viên góp phần xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh. Thông qua kiểm tra đã xử lý kỷ luật 09 đồng chí.

Về công tác dân vận: Đảng bộ đã phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Làm tốt công tác vận động cán bộ, đảng viên và quần chúng chấp hành, thực hiện có hiệu quả chính sách chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nội quy của địa phương.

Trong 5 năm thực hiện kế hoạch Nhà nước lần thứ 2 (1976-1980), Đảng bộ xã Thanh Hương đã đạt được một số thành tựu nhất định, song trên thực tiễn vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế và tồn tại. Nguyên nhân chủ yếu là do đất nước vừa trải qua cuộc chiến tranh lâu dài với những hậu quả nặng nề, tiếp đó lại phải đối phó với chiến tranh biên giới. Trong khi đó, giai đoạn này cơ chế quản lý quan liêu bao cấp bắt đầu bộc lộ sự trì trệ. Những thành công và hạn chế trong thời gian (1976-1980) đã đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân cần phải có những điều chỉnh, thay đổi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho phù hợp với tình hình thực tiễn mới.

II. LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI (1981 - 1985)

Trước tình hình kinh tế - xã hội ngày càng khó khăn, trì trệ và lâm vào khủng hoảng. Trên cơ sở một số địa phương giải quyết khó khăn bằng cách khoán thí điểm trong nông nghiệp đạt hiệu quả tốt. Qua khảo sát thực tiễn, ngày 13/01/1981 Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 100-CT/TW về cải tiến công tác khoán trong nông nghiệp. Nội dung của chỉ thị là các hợp tác xã nông nghiệp tiến hành khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động. Trong đó, xã viên được đảm nhận ba khâu trong quá trình sản xuất là gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch. Hợp tác xã đảm nhận 5 khâu là làm đất, thủy lợi, giống, phân bón và bảo vệ thực vật. Sản lượng khoán được định trước, phần vượt khoán xã viên được hưởng 100%. Ngày 21/01/1981, Chính phủ ban hành Quyết định số 25/QĐ-CP về một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính. Đây là sự đổi mới có ý nghĩa quan trọng, mở ra một hướng mới “Làm cho sản xuất bung ra”.

Để thực hiện tốt Chỉ thị 100-CT/TW và Quyết định số 25/QĐ-CP, Đảng ủy đã tổ chức triển khai quán triệt một cách sâu rộng đến từng cán bộ, đảng viên và nhân dân để tất cả mọi người nắm vững chủ trương mới của Trung ương về đổi mới kinh tế. Quá trình triển khai Chỉ thị 100 của Ban Bí thư và Quyết định số 25 của Chính phủ đã được nhân dân đón nhận như một luồng gió mới đầy sinh khí, động lực vượt khoán được người lao động đặt biệt quan tâm. Đây là yếu tố tạo ra tăng trưởng, khắc phục khó khăn về lương thực của cơ chế cũ trong sản xuất.

Thực hiện kế hoạch Đại hội cấp cơ sở của Huyện ủy Thanh Chương, từ ngày 20- 21/4/1981, Đảng ủy tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 1981-1983 tại Hòa Quân, với sự tham dự của 140 đảng viên.

Đại hội đánh giá những kết quả đạt được trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng cũng như sự vào cuộc mạnh mẽ của chính quyền và các tổ chức đoàn thể và sự đồng lòng, đồng sức của nhân dân cơ bản các chỉ tiêu, nhiệm vụ của nhiệm kỳ đã hoàn thành. Tuy nhiên do tình hình thời tiết, thiên tai khắc nghiệt và vai trò lãnh chỉ đạo có lúc thiếu kịp thời nên kết quả đạt được chưa cao. Trong chỉ đạo sản xuất nông nghiệp còn lúng túng, năng suất, sản lượng đạt chưa cao; các hợp tác xã chưa phát huy được vai trò điều hành trong sản xuất; ngành nghề phát triển manh mún; các phong trào văn hóa chưa được thường xuyên; công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân có lúc chưa đáp ứng được nhu cầu; tình hình an ninh, trật tự trên đại bàn còn tiềm ẩn phức tạp; hoạt động của cấp ủy, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể chưa năng động, sáng tạo trong chỉ đạo, điều hành. Tất cả những hạn chế, khuyết điểm trên thuộc về trách nhiệm của tập thể Ban Chấp hành Đảng bộ. Đại hội cũng đã rút ra những bài học kinh nghiệm làm cơ sở để xây dựng các mục tiêu, nhiệm vụ sát đúng với yêu cầu nhiệm vụ cho nhiệm kỳ tới.

Đại hội đề ra phương hướng cho nhiệm kỳ tới là: Tiếp tục ra sức đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, tăng cường đầu tư thâm canh, đẩy mạnh phong trào làm thuỷ lợi, làm phân xanh, phấn đấu tăng năng suất và sản lượng hàng năm. Chú trọng phát triển chăn nuôi, cố gắng tạo bước đột phá về xây dựng cơ sở vật chất, nhất là cho trường học, thực hiện khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, tăng cường củng cố tổ chức Đảng và hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng giáo dục, công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, xây dựng nếp sống văn hoá mới; đảm bảo an ninh, quốc phòng.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 13 đồng chí, đồng chí Tô Thái Định tiếp tục được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Trợng được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Nguyễn Văn Hùng được bầu làm Trực Đảng. Tháng 10/1982, đồng chí Nguyễn Văn Giai được bầu làm Bí thư.

Sau Đại hội, Đảng ủy đã phân công trách nhiệm cho từng đồng chí đảng ủy viên bám sát cơ sở xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện nghị quyết đại hội sát đúng với thực tiễn của địa phương.

Lĩnh vực kinh tế: Sau Đại hội, quán triệt Nghị quyết Trung ương 6 và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện Thanh Chương, Ban Chấp hành Đảng bộ xã đã triển khai đầy đủ, triệt để đến tận đảng viên, xã viên hợp tác xã và chỉ đạo việc thực hiện ba khoán. Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện uỷ, Thường vụ Đảng uỷ xã đã tổ chức cho Hợp tác xã Nông nghiệp toàn xã tiến hành khoán đến sản phẩm theo chủ trương của cấp trên. Chỉ thị 100 của Ban Bí thư như một luồng gió mới thổi vào nền kinh tế đất nước, đã đáp ứng nguyện vọng của đại bộ phận nông dân, động viên người lao động phát huy tính tích cực tinh thần tự giác trong lao động, sản xuất làm ra nhiều sản phẩm cho xã hội, và phục vụ đời sống gia đình.

Trong sản xuất nông nghiệp đã có bước chuyển biến và đẩy mạnh phát triển toàn diện cả về chuyển dịch mùa vụ, cơ cấu cây trồng vật nuôi, áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật trong chọn giống, chăm sóc đưa đến diện tích, năng suất, sản lượng trong trồng trọt, chăn nuôi đều tăng so với các năm của nhiệm kỳ trước. Diện tích đất trồng tăng lên, xã viên vừa khai hoang, vừa phục hoá đất ở các triền khe suối, bìa rừng để đưa vào sản xuất. Diện tích cây lương thực đảm bảo cân đối diện tích giữa lúa, màu, cây công nghiệp và cây thực phẩm, tăng diện tích cây lạc, vừng, sắn. Thực hiện ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, chọn các giống lạc, sắn,... có năng suất cao đưa vào sản xuất, kết hợp đầy đủ các biện pháp, chăm sóc, phòng trừ các loại bệnh, nấm gây hại cây trồng, vật nuôi.

Về trồng trọt, xã chỉ đạo người dân tập trung gieo trồng hết diện tích theo kế hoạch. Đến năm 1983, tổng diện tích gieo trồng đạt trên 443 ha, 100% diện tích đã được khoán đến hộ gia đình. Năng suất, sản lượng tăng 15% năm. Tổng sản lượng lương thực năm 1983 đạt 750 tấn. Nhờ vậy mà đời sống của người dân được nâng lên, kế hoạch Nhà nước hoàn thành. Bình quân lương thực màu quy thóc, người/tháng trong nhiệm kỳ đạt trên 10 kg nhưng nếu tính cả phần vượt khoán và phần tự sản xuất của kinh tế gia đình có thể đạt bình quân 14-15 kg, đời sống người lao động từng bước được nâng lên.

Chăn nuôi: Đã có hướng phát triển, đàn trâu bò tăng nhanh về số lượng. Tổng đàn đạt khoảng 1.300 con, cơ bản đáp ứng sức kéo và các hoạt động phục vụ sản xuất. Đàn lợn phát triến mạnh như khoán theo 02 hình thức: khoán sản phẩm theo trại lợn, tập thể chịu khâu sản xuất, thức ăn cho lợn, lao động chịu nộp sản phẩm, khoán gia công cho gia đình xã viên nuôi lợn sinh sản, lợn thịt. Nên tổng đàn đạt 1.500 con.

Với hình thức khoản sản phẩm đến nhóm và người lao động đã thể hiện được “ý Đảng, lòng dân”, bước đầu tạo nên khí thế hồ hởi, phấn khởi và tinh thần tự giác hăng say lao động của xã viên, phát huy được trách nhiệm của mọi người dân và cán bộ quản lý của các hợp tác xã, thúc đẩy thực hiện đầy đủ các quy trình sản xuất, các biện pháp kỹ thuật, thời vụ, đẩy lùi dần từng bước các hiện tượng tiêu cực trong sản xuất như: “rong công, chấm điểm, ngồi chơi xơi nước, đi muộn về sớm” vn có điểm tính sản phẩm.

Từ khi đi vào thực hiện Chỉ thị 100, việc đầu tư sức lao động và chi phí cho một đơn vị diện tích để thâm canh được người nông dân quan tâm đầy đủ. Sức lao động huy động cao hơn, giờ làm việc hu ích trên đồng ruộng được tăng lên, việc áp dụng khoa học kỹ thuật, đưa giống mới vào sản xuất được chú ý nhiều. Chất lượng quy trình kỹ thuật thâm canh được thực hiện tốt. Đời sống của người lao động trong 03 năm qua, tuy còn nhiều khó khăn nhưng vẫn ổn định, có nhiều mặt được cải thiện rõ rệt cả về ăn, ở, mặc, học hành và sức mua sắm.

Đối với lâm nghiệp, thực hiện chủ trương về trồng cây gây rừng, phủ xanh đồi trọc, người dân đã tiến quân lên vùng đồi và bước đầu đạt được những kết quả đáng khích lệ. Năm 1982, toàn xã trồng được 15 ha cây tập trung, năm 1983 trồng 20 ha.

Xây dựng cơ bản có bước tiến mới. Hệ thống giao thông nông thôn, giao thông nội đồng được nâng cấp mở rộng 07 km phục vụ nhu cầu dân sinh và sản xuất. Hàng năm, các hợp tác xã đã tu bổ, tôn tạo các kênh mương để đáp ứng cho sản xuất cho nhân dân. Các trường học được tu bổ, vào các dịp đầu năm học, trường huy động phụ huynh tham gia cùng tu sửa trường lớp để phục vụ cho công tác dạy học của nhà trường.

Hợp tác xã Mua bán đã từng bước chuyển đổi trong các hình thức mua bán, trao đổi, lưu thông hàng hóa phục vụ sinh hoạt cho nhân dân và tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn.

Hợp tác xã Tín dụng nâng cao chất lượng hoạt động, năng động trong việc thu tiền gửi và cho vay hỗ trợ nguồn vốn phục vụ sản xuất và sinh hoạt cho người dân.

Lĩnh vực văn hoá - xã hội: Có những bước chuyển biến đáng khích lệ. Các hoạt động văn hóa, thông tin, thể thao diễn ra sôi nổi. Trong thôn, xóm đã vận động và thực hiện tổ chức đám cưới, đám tang theo hình thức mới. Phong trào xây dựng nếp sống văn hóa mới được phát động rộng rãi trong người dân. Các hoạt động văn nghệ, thể thao phát triển sâu rộng. Trong nhiệm kỳ với tinh thần tự chủ, không ngồi chờ, ỷ lại cấp trên, trên cơ sở phát triển sản xuất kết hợp kinh tế Nhà nước, tập thể, gia đình và cá nhân đã giải quyết tốt những khó khăn, tiếp tục đưa cuộc sống đi vào ổn định và phát triển.

 Đầu năm 1980, thực hiện cải cách giáo dục, Thường vụ Huyện uỷ ra quyết định thành lập “Ban Chỉ đạo cải cách giáo dục của huyện”. Dưới sự chỉ đạo của Huyện uỷ, Thường trực Uỷ ban nhân dân xã đã chỉ đạo kịp thời đưa sự nghiệp giáo dục xã nhà phát triển mạnh mẽ ở 03 ngành học: mầm non, cấp 1, 2 và bổ túc văn hoá cho người lớn. Năm học 1982-1983, trường cấp 1, 2 được công nhận là trường “Tiên tiến cấp huyện”.

Công tác y tế có nhiều chuyển biến. Thực hiện phong trào “năm dứt điểm” đã đem lại những tiến bộ trong công tác phòng, chữa bệnh, xây dựng cơ sở vật chất của trạm. Số lượt người khám bệnh đạt 440 lần, bình quân mỗi người được khám 02 lần/năm. Tỷ lệ sinh đẻ từ 2,3% năm 1980 giảm xuống còn 2% năm 1982. Trong điều trị đã biết kết hợp tốt Đông - Tây y, bước đầu đã xây dựng được vườn thuốc nam và sử dụng có hiệu quả.

 Chính sách xã hội được được thực hiện tốt. Đảng bộ và chính quyền xã thường xuyên quan tâm tới các gia đình chính sách. Các hoạt động đền ơn, đáp nghĩa, chính sách hậu phương quân đội được quân tâm. Các chế độ chính sách cho các đối tượng được thực hiện đầy đủ, đúng pháp luật.

Quốc phòng, an ninh, thực hiện 02 nhiệm vụ chiến lược của Đảng đề ra là: Xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc chủ nghĩa xã hội chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ địch nhất là bọn phản động Trung Quốc. Trong 02 năm qua Đảng bộ và Nhân dân xã Thanh Hương đã quán triệt các nghị quyết của Trung ương, qua đó mà nâng cao tinh thần cảnh giác.

Xã xây dựng lực lượng dân quân vững mạnh, thường xuyên nâng cao cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, nhận thức rõ tình hình cách mạng hiện nay đã duy trì báo động diễn tập theo phương án, quản lý tốt vũ khí, trang bị kỹ thuật. Làm tốt công tác huấn luyện quân sự, công tác gọi thanh niên nhập ngũ, vượt chỉ tiêu, đảm bảo quân số và chất lượng. Làm tốt công tác chính sách hậu phương.

Ban Công an được củng cố, tăng cường các hoạt động tuần tra, kiểm soát giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Các phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc được phát động. Nâng cao vai trò trách nhiệm của đội ngũ công an viên làm nòng cốt cho toàn dân tham gia các hoạt động bảo vệ trị an trên địa bàn. Ban Công an đã xử lý tốt các vụ việc xẩy ra trên địa bàn. Trong nhiệm kỳ đã xử lý 15 vụ việc gây rối làm mất trật tự an ninh với 15 đối tượng.

Công tác xây dựng Đảng: Đã tổ chức quán triệt, triển khai nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng các cấp. Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao tính tiền phong gương mẫu của đảng viên, năng lực và sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên tạo khí thế cách mạng sôi nổi trong toàn Đảng bộ.

Công tác tổ chức và đảng viên: Thường xuyên củng cố, kiện toàn lại đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Phân công, phân nhiệm đội ngũ cán bộ, đảng viên đúng người, đúng việc kịp thời động viên, khuyến khích đội ngũ cán bộ hoàn thành nhiệm vụ, chăm lo đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể, cán bộ hợp tác xã. Tập trung xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh. Kết quả có 04 chi bộ đạt “Trong sạch vững mạnh”, Đảng bộ đạt danh hiệu “Hoàn thành tốt nhiệm vụ”. Trong nhiệm kỳ đã kết nạp được 13 đồng chí đảng viên mới.

Công tác kiểm tra, giám sát đã bám sát kế hoạch toàn khóa, hàng năm cấp ủy đã xây dựng kế hoạch cụ thể tiến hành kiểm tra, giám sát, kịp thời đôn đốc cấp ủy và các tổ chức đảng trực thuộc triển khai thực hiện nhiệm vụ. Tổ chức kiểm tra các các tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vị phạm kỷ luật Đảng, nhiệm kỳ qua đã xử lý kỷ luật 05 đảng viên, trong đó: khai trừ 02 đảng viên, lưu Đảng 02 đồng chí, cảnh cảo 01 đồng chí.

Công tác dân vận, Đảng ủy luôn chăm lo công tác vận động quần chúng tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, chăm lo phát triển kinh tế nâng cao đời sống cho nhân dân. Vận động đống góp sức người, sức của để xây dựng các công trình như đường giao thông, kênh mương, nhà trường.

Trải qua 02 năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ và hơn một năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (1982), xã Thanh Hương đã có nhiều khởi sắc, nhất là trong lĩnh vực kinh tế.

Để tiếp tục thực hiện tốt nghị quyết của Đại hội Đảng các cấp, được sự đồng ý của Huyện ủy Thanh Chương vào tháng 8/1983, Đảng ủy tổ chức Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 1983-1985, tại Hòa Quân với sự tham dự của 154 đảng viên.

Đại hội đã nghiêm túc đánh giá những thành tựu của công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong 02 năm vừa qua. Trong đó, đại hội đánh giá những kết quả đạt được trên lĩnh vực nông nghiệp cho thấy sự đúng đắn của việc thực hiện Chỉ thị 100 của Trung ương Đảng đối với thực trạng của đất nước và sự vận dụng có hiệu quả của Đảng bộ và Nhân dân xã nhà vào thực tiễn của địa phương. Hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao được đổi mới. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể được quan tâm.

Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế như phát triển kinh tế còn manh mún, thiếu khoa học, các hoạt động thiếu đồng bộ, đời sống của một bộ phận nhân dân còn nghèo, đói, vai trò trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, mặt trn và các đoàn thể còn hạn chế và có lúc còn lúng túng trước cơ chế mới. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy và chính quyền có mặt còn hạn chế.

Đại hội đề ra nhiệm vụ cho nhiệm kỳ mới đó là: Quyết tâm thực hiện tốt Ch thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, chuyển đổi cơ cấu cây trồng mùa vụ, đưa các giống lúa mới năng suất cao vào canh tác, tăng diện tích trồng ngô, khoai, đậu, lạc, c… Hoàn thành các nghĩa vụ lương thực cho Nhà nước. Thay đổi phương thực hoạt động của của các ngành nghề và các hình thức kinh tế hướng vào hiệu quả và chất lượng. Tăng cường công tác phát triển văn hóa xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. Phát huy vai trò của chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể trong chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ, tập trung nầng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức Đảng.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 11 đồng chí, đồng chí Nguyễn Văn Giai tiếp tục được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Trợng tiếp tục được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Nguyễn Văn Hùng tiếp tục được bầu làm Trực Đảng.

Sau Đại hội thực hiện nghị quyết của Đảng bộ, Đảng ủy đã lãnh đạo nhân dân hoàn thành các nhiệm vụ đã đề ra.

Lĩnh vực kinh tế: Đối với sản xuất nông nghiệp, Đảng ủy tích cực chỉ đạo thực hiện 03 mục tiêu: lương thực, thực phẩm, hàng hoá xuất khẩu và nguyên liệu cho công nghiệp. Chỉ đạo hợp tác xã xây dựng kế hoạch bố trí lại sản xuất, cơ cấu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi hợp lý trên cơ sở cân đối theo 03 nhiệm vụ chủ yếu trong nông nghiệp. Để đạt được hiệu quả cao trong sản xuất phải tập trung đẩy mạnh thực hiện thâm canh, chuyên canh, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Tính đến năm 1984, tổng diện tích gieo trồng vẫn đạt mục tiêu đề ra. Vụ Đông Xuân năm 1982-1983, sản xuất nông nghiệp của xã nhà đang trên đà phát triển thì tháng 10/1983 cơ bão số 10 với sức gió lên tới cấp 11-12 đổ bộ vào miền Trung làm cho hàng trăm ha lúa, hoa màu bị ngập nước, hàng chục ngôi nhà, nhiều công trình, kho tàng, trường học, trạm xá bị sập, công trình thuỷ lợi, cầu cống, đường giao thông bị hư hỏng nặng phải tốn nhiều công sức, tiền của và thời gian mới khắc phục được. Trước những thiệt hại to lớn do thiên tai gây ra, nhân dân xã nhà đã nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, tương thân, tương ái, “lá lành đùm lá rách” giúp đỡ lẫn nhau vượt qua hoạn nạn, khó khăn.

Vụ Đông Xuân năm 1984-1985, trong điều kiện bão lụt tàn phá nặng nề nhưng cơ cấu cây trồng vẫn không bị đảo lộn, cây lương thực vẫn là chủ lực. Diện tích cây lương thực vẫn giữ 450 ha, trong đó lúa đạt 100%; màu 115,4%; cây công nghiệp ngắn ngày lạc có 320 ha, đạt 91,2%; vừng 10 ha, đưa tỷ lệ cây công nghiệp, cây xuất khẩu so với diện tích gieo trồng lên 20,5%. Năng suất cây trồng các loại đạt cao, năng suất lạc bình quân cả năm 10 tạ/ha, cây màu khoai, sắn, đạt từ 50 tạ/ha đến 60 tạ/ha.

Trong các năm 1983-1985, xã hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước, đời sống nhân dân được cải thiện và đi dần vào ổn định. Trong các năm 1984-1985, lương thực bình quân đầu người trong xã đạt từ 180 đến 200 kg/năm.

Lĩnh vực chăn nuôi phát triển theo hướng toàn diện, đảm bảo nhu cầu về thực phẩm và sức kéo trong nông nghiệp. Cơ cấu chăn nuôi của xã khá hợp lí. Ngoài gia súc, chăn nuôi gia cầm có xu hướng vượt khỏi khuôn khổ tự túc thực phẩm, một phần trở thành hàng hoá. Năm 1985, đàn trâu, bò đạt 1.150 con, đàn lợn đạt trên 1.500 con. Đàn gia cầm tăng mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng, đem lại nguồn thu nhập khá và góp phần nâng cao đời sống người dân.

Lâm nghiệp đã có những chuyển biến tích cực. Công tác trồng, khoanh nuôi, bảo vệ, khai thác và sử dụng hợp lý góp phần đáng kể vào việc tạo ra giá trị kinh tế, bảo vệ môi trường sinh thái. Việc đưa các loại cây có giá trị kinh tế cao, kết hợp với việc trồng cây phủ xanh đồi, núi trọc, chống xói mòn, bảo vệ rừng được coi trọng và thực hiện tốt.

Tiểu thủ công nghiệp có nhiều chuyển biến. Đảng uỷ, Ủy ban nhân dân xã chủ trương mở rộng, phát triển các nghề tiểu thủ công nghiệp như xây dựng các lò gạch, lò vôi, các tổ khai thác lâm sản, hình thành các nghề thủ công như mộc, rèn, cưa…

Về xây dựng cơ bản, trong năm 1984-1985, được sự hỗ trợ của huyện và ngân sách của địa phương, xã Thanh Hương đã kéo được 1,3km đường điện từ Ba Bến vào trạm bơm Cây Sanh với số tiền 2,5 triệu đồng.

Trong hoạt động phân phối, lưu thông, hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng xã nhà vẫn tiến triển tốt. Hợp tác xã Mua bán đã thực hiện tốt việc lưu thông hai chiều, vừa bán các mặt hàng thiết yếu cho người dân, vừa mua một số hàng của người dân để bán lại.

Hợp tác xã Tín dụng đã thu hút được trên 90% số hộ gia đình tham gia. Hàng năm việc quyết toán, thu chi được triển khai minh bạch, rõ ràng. Số tiền dư đến cuối kỳ luôn đạt cao. Xã viên tham gia gửi tiền chiếm tỷ lệ lớn.

Lĩnh vực văn hóa - xã hội: Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao được thực hiện tốt. Các gia đình chính sách được xã thực hiện đầy đủ. Phong trào xây dựng nếp sống văn hóa mới được phát động rộng rãi trong nhân dân. Trong thôn, xóm đã vận động và thực hiện tổ chức đám cưới, đám tang theo hình thức mới.

Giáo dục xã nhà có nhiều thay đổi. Lúc này, xã có hai ngành học mẫu giáo, trường cấp 1, 2, với gần 600 học sinh theo học. Các trường học trong bậc học phổ thông đã tích cực thực hiện cuộc vận động “Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương sáng cho học sinh noi theo” và cuộc vận động “Phát huy sức mạnh tập thể của tuổi trẻ trường học ra sức thực hiện 5 điều Bác Hồ dạy”. Các trường đã gắn việc dạy học văn hoá với giáo dục đạo đức cách mạng trong học sinh và lao động hướng nghiệp, học tập gắn với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội theo mục tiêu cải cách giáo dục. Do đó, chất lượng giáo dục có nhiều chuyển biến tích cực. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, tạo ra bước chuyển biến đồng bộ giữa các mặt hoạt động, xoá dần sự trì trệ, yếu kém, giữ vững niềm tin của người dân trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế - xã hội.

Đối với y tế, phát huy được phong trào thi đua “5 dứt điểm”, hướng hoạt động về cơ s đẩy mạnh công tác chăm lo phòng và chữa bệnh cho nhân dân, ngăn chặn kịp thời các dịch bệnh, đặc biệt là bệnh sốt rét. Công tác sinh đẻ có kế hoạch đã có những bước quan tâm hơn so với trước đây.

Chính sách xã hội, tập trung rà soát lại hộ đói, xây dựng kế hoạch giúp đỡ, hỗ trợ cho các hộ nghèo. Mặt trận và các đoàn thế xây dựng kế hoạch tương thân, tương ái, để giúp đỡ các hộ nghèo, đói. Quan tâm chăm sóc đến những gia đình có công với cách mạng, gia đình thương binh, liệt sỹ.

Lĩnh vực quốc phòng, an ninh: Công tác quốc phòng luôn được Đảng bộ quan tâm. Đảng bộ đã làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục cho cán bộ, đảng viên nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đối phó có hiệu quả với mọi tình huống có thể xẩy ra. Lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên được quản lý chặt chẽ. Hằng năm căn cứ vào tình hình, xã đội tham mưu xây dựng lực lượng dân quân, hoàn thành chương trình huấn luyện đảm bảo số lượng và chất lượng, xây dựng phương án tác chiến, bảo vệ an ninh vững chắc trên địa bàn, hàng năm giao quân đạt số lượng trên giao.

Công tác an ninh, Đảng bộ chăm lo xây dựng tốt lực lượng vũ trang, công an xã, tổ an ninh cơ sở đã tích cực tuần tra, kiểm soát tốt các hoạt động trên địa bàn. Việc kiểm tra hộ khẩu, tạm trú được chú trọng. Các vụ việc gây mất an ninh trên địa bàn được giải quyết dứt điểm. Trong nhiệm kỳ, Ban Công an đã xử lý 08 vụ vi phạm, với 11 đối tượng.

Công tác xây dựng Đảng: Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên hàng năm được quan tâm. Đảng uỷ thường xuyên tổ chức các đợt học tập, sinh hoạt chính trị, nghiên cứu, học tập các nghị quyết, chỉ thị mới của Đảng, quán triệt sâu rộng, nâng cao nhận thức chính trị cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.

Công tác tổ chức và đảng viên được tăng cường, phân công nhiệm vụ, phân cấp trách nhiệm, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Mạnh dạn cơ cấu cán bộ trẻ, có năng lực vào các chức vụ lãnh đạo chủ chốt, làm tốt công tác tạo nguồn và cử cán bộ đi đào tạo. Công tác đánh giá, phân loại đảng viên được thực hiện thường xuyên. Về phân loại, cuối nhiệm kỳ có 75% đồng chí xếp loại I, 20% đồng chí người xếp loại II, 5% đồng chí xếp loại III. Trong công tác Đảng còn có một số hạn chế như tỷ lệ đảng viên nữ chiếm tỉ lệ thấp, số lượng đảng viên được kết nạp mới ít. Một số cán bộ, đảng viên còn nặng tư tưởng bảo thủ, ỷ lại, chưa thích nghi với công cuộc đổi mới, chưa mạnh dạn dám nghĩ, dám làm.

Đối với công tác kiểm tra, giám sát: Hàng năm cấp ủy đã xây dựng kế hoạch cụ thể tiến hành kiểm tra, giám sát kịp thời đôn đốc cấp ủy và các tổ chức đảng trực thuộc triển khai thực hiện nhiệm vụ. Tổ chức kiểm tra các các tổ chức, cá nhân có dấu hiệu vị phạm kỷ luật Đảng, trong nhiệm kỳ đã tiến hành kiểm tra 11 cuộc, kịp thời xử lý kỷ luật 09 đảng viên.

Công tác dân vận, luôn được Đảng ủy chăm lo. Đảng ủy đã thực hiện tốt công tác vận động quần chúng tham gia các phong trào thi đua yêu nước, chăm lo phát triển kinh tế nâng cao đời sống cho nhân dân. Vận động Nhân dân đóng góp sức người, sức của để xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng trong địa phương như đường giao thông, kênh mương, nhà trường…

Trải qua 10 năm thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng Đảng bộ xã Thanh Hương đã phát huy truyền thống của một Đảng bộ được tôi luyện và trưởng thành qua cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc Pháp, Mỹ, vận dụng sáng tạo đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng vào thực tiễn địa phương mình, lãnh đạo nhân dân tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh.

Để tiếp tục đưa địa phương ngày càng đi lên, được sự đồng ý của Huyện ủy Thanh Chương, tháng 6/1985, Đảng ủy tổ chức Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 1985-1987 với sự tham dự của 177 đảng viên.

Đại hội đã đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội trong nhiệm kỳ vừa qua. Đối với sản xuất nông nghiệp, phát triển ngành nghề đều được duy trì, có tiến bộ và khẳng định đây là một bước ngoặt trong tư duy hành động của cán bộ, đảng viên với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật. Các phong trào cách mạng được phát động trên nhiều lĩnh vực, đời sống của nhân dân được nâng lên một bước, bộ mặt nông thôn từng bước được đổi mới. Cấp ủy, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể vào cuộc một cách kịp thời, tình hình an ninh chính trị được giữ vững, khối đại đoàn kết được phát huy.

Đại hội cũng đã kiểm điểm những hạn chế, phê phán những suy nghĩ chủ quan, duy ý chí, hành động nóng vội và rút ra những bài học kinh nghiệm.

Đại hội đề ra nhiệm vụ cho nhiệm kỳ tới đó là: Phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ, đưa các giống lúa mới có năng suất cao vào canh tác, tạo điều kiện để các ngành nghề phát triển, hoàn thành nghĩa vụ lương thực đối với Nhà nước. Kịp thời đổi mới cách nghĩ, cách làm, bám sát thực tiễn của cơ sở để chỉ đạo. Tập trung lãnh đạo toàn dân phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, làm tốt công tác tuyển quân, giao quân, xây dựng lực lượng dân quân và lực lượng công an vững mạnh, chú trọng xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh.

Đại hội bầu Ban Chấp hành mới gồm 13 đồng chí, đồng chí Tô Thái Định được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Trợng tiếp tục được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Nguyễn Văn Hùng tiếp tục được bầu làm Trực Đảng. Tháng 6/1987, đồng chí Nguyễn Trung Kiên được bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã.

Sau Đại hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, Nhân dân đã bắt tay vào thực hiện nghị quyết đã đề ra và giành được một số thành tựu trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Tuy nhiên đây là giai đoạn tình hình đất nước nhìn chung còn gặp rất nhiều khó khăn vì vậy việc sớm có một cơ chế, quyết sách đổi mới là điều kiện cần thiết để ổn định cuộc sống nhân dân, đưa phong trào cách mạng của nước ta đi lên một tầm cao mới.

Chương VI

ĐẢNG BỘ XÃ THANH HƯƠNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN

THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI (1986 - 2024)

 

I. XÃ THANH HƯƠNG TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986 - 1990)

Từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986, tại Thủ đô Hà Nội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra và đề xướng đường lối đổi mới toàn diện nhằm đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực hiện chủ trương của cấp trên, bước vào thời kỳ đổi mới, Thanh Hương là xã gặp nhiều khó khăn như cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn; cơ chế quan liêu bao cấp còn nặng nề;... nhưng bên cạnh đó, cũng có những thuận lợi cơ bản như nguồn nhân lực dồi dào, người dân năng động, sáng tạo, cần cù, chịu khó; đặc biệt là sự đoàn kết, thống nhất giữa tổ chức Đảng và quần chúng... Phát huy những lợi thế, hạn chế tối đa khó khăn, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, xã Thanh Hương vững vàng bước vào thực hiện công cuộc đổi mới.

Lĩnh vực kinh tế: Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo các hợp tác xã tổ chức lại các tổ, đội kỹ thuật, vận động xã viên áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nhanh chóng thực hiện chủ trương “tăng vụ 8, giảm vụ 10”, “luồn lách thời vụ” tránh thiệt hại do thiên tai gây ra. Phát động nhân dân đẩy mạnh tập trung khai phá vùng đất đồi, gò có khả năng trồng trọt để mở rộng diện tích trồng màu và các loại cây trồng khác. Nhờ đó trong nông nghiệp có sự chuyển biến khá cả về diện tích, năng suất, sản lượng các loại cây trồng. Kết quả năm 1985 năng suất lúa từ 18 tạ/ha đến năm 1987 tăng lên 22 tạ/ha, năng suất ngô từ 12 tạ/ha lên 16 tạ/ha năm 1987. Nhân dân đã chuyển đổi một số diện tích trồng lúa kém năng suất, không chủ động được nước sang trồng cây công nghiệp ngắn và dài ngày như cây lạc, ớt… Đối với cây lạc năm 1985 trồng được 22 ha đến năm 1987 tăng lên 40 ha, sản lượng đạt 72 tấn. Cây ớt năm 1985 chỉ có một số hộ trồng đến năm 1987 toàn xã trồng đại trà.

Trong chăn nuôi, tổng đàn trâu, bò, lợn và gia cầm của xã luôn đứng vào tốp đầu của huyện. Năm 1985 toàn xã có khoảng 1.500 con trâu, bò; 1.200 con lợn; đến năm 1987 đã tăng lên 1.700 con trâu, bò; 1.500 con lợn.

Tiểu thủ công nghiệp: Hàng năm các lò gạch, ngói sản xuất được hàng vạn sản phẩm phục vụ cho Nhân dân trong xã và bán ra thị trường. Các lò vôi tiếp tục được phát triển mạnh mẽ để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Nghề rèn đã được khôi phục và đi vào sản xuất, chủ yếu rèn các nông cụ như lưỡi cày, cuốc, dao rạ, liềmphục vụ cho người dân trong xã.  

Xây dựng cơ bản, trong nhiệm kỳ xã đã tập trung vốn, ngày công để tu sửa nhiều cầu, cống, đường giao thông và đập thủy lợi, nâng cấp các trục đường chính, tu sửa những hồ đập đã xuống cấp, làm mới một số công trình đập nước để phục vụ tưới tiêu. Năm 1986, xã đầu tư xây dựng trạm điện vùng trạm xá để phục vụ cho bơm nước.

Hợp tác xã Mua bán đã phát huy được vai trò của mình trong việc cung cấp hàng hóa cho nhân dân. Hợp tác xã Tín dụng là một trong những đơn vị có số dư cao của huyện.

Lĩnh vực văn hóa - xã hội: Công tác văn hóa thường xuyên được quan tâm, các đội văn nghệ được đầu tư kinh phí để mua đạo cụ biểu diễn. Vào các dịp lễ, tết xã tổ chức cho nhân dân tham gia các trận đá bóng giao hữu giữa các đơn vị sản xuất, tổ chức các trò chơi dân gian tạo không khí vui tươi lành mạnh trong khu dân cư.

Nhờ thực hiện tốt công tác cải cách giáo dục nên chất lượng dạy và học được nâng lên. Giáo dục hướng nghiệp, phong trào thi đua “Hai tốt” gắn chặt với sinh hoạt học đường. Các chỉ tiêu giáo dục cơ bản đều tăng. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp đạt từ 90-95%. Số học sinh lên học phổ thông trung học đạt cao so với những những năm trước. Tuy nhiên, ngành giáo dục trong giai đoạn này vẫn còn nhiều hạn chế như: số lượng học sinh giỏi các cấp còn ít; cơ sở vật chất, trang thiết bị chưa đầy đủ; đời sống đại bộ phận giáo viên còn gặp nhiều khó khăn.

Công tác vệ sinh, phòng bệnh, chữa bệnh có bước tiến đáng kể. Phương pháp chữa bệnh kết hợp giữa y học cổ truyền và y học hiện đại được phát huy mạnh mẽ. Đội ngũ cán bộ y tế có năng lực chuyên môn từng bước được tăng cường. Trạm y tế dần dần được củng cố, đảm bảo chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân. Hàng năm đã khám và chăm sóc cho hàng trăm lượt người bệnh. Tổ chức tiêm phòng cho bà mẹ và trẻ em đầy đủ, đúng thời gian quy định.

Lĩnh vực quốc phòng, an ninh: Thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược của Đảng đề ra, xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc chủ nghĩa xã hội, Đảng bộ và Nhân dân xã đã quán triệt các nghị quyết của Trung ương, tỉnh, huyện. Tổ chức giáo dục tuyên truyền làm cho nhân dân hiểu, nhận thức được tình hình nhiệm vụ cách mạng hiện nay, nâng cao cảnh giác sẵn sàng chiến đấu làm tốt 2 nhiệm vụ chiến lược. Từ đó đã ngăn chặn được các tệ nạn xã hội, tiêu cực trong xã hội, kiên quyết trấn áp các tội phạm, giữ được an ninh chính trị trật tự xã hội. Từng bước nắm hộ, nắm người, quản lý đối tượng, quản lý hình sự chặt chẽ, cho nên trên địa bàn không có những vụ việc nghiêm trọng xẩy ra.

Công tác đảm bảo an ninh chính trị, được tăng cường một bước, đã nâng cao tinh thần sẵn sàng chiến đấu, phương án tác chiến, chiến đấu kết hợp báo động tập duyệt được nâng lên. Hàng năm xã đều tuyển và giao quân đảm bảo số lượng và chất lượng.

Công tác xây dựng Đảng: Đảng bộ luôn chú trọng làm tốt công tác chính trị, tư tưởng. Hàng năm đều tổ chức học tập và quán triệt nghị quyết của các cấp tới mỗi cán bộ, đảng viên trong xã. Qua đợt học tập, cán bộ, đảng viên đã nghiêm túc liên hệ, kiểm điểm những ưu điểm, tồn tại, thiếu sót, đứng trước tình hình thế giới diễn biến phức tạp, những khó khăn gay gắt của đất nước, của xã, đa số cán bộ, đảng viên tỏ rõ được bản lĩnh kiên định, vững vàng tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, đã phát huy tốt vai trò tiên phong và năng lực lãnh đạo, tích cực ủng hộ công cuộc đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, kiên quyết đấu tranh chống lại những tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ỷ lại thủ động và những tư tưởng lệch lạc khác.

Công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ có những chuyển biến tích cực. Việc bồi dưỡng, kết nạp đảng viên mới được Ban Chấp hành Đảng bộ quan tâm triển khai chặt chẽ, đảm bảo các quy định.

Công tác kiểm tra, xử lý kỷ luật đảng viên tiến hành nghiêm túc đúng nguyên tắc Điều lệ của Đảng. Hai năm qua thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng bộ xã đã nắm bắt và vận dụng sáng tạo các nghị quyết của Đảng và Nhà nước để định hướng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm.

Sau hơn một năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả nước nói chung, xã Thanh Hương nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bức tranh của nền kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội có sự đổi thay nhanh chóng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn gặp phải những khó khăn, hạn chế như: tốc độ tăng trưởng chậm, hiệu quả sản xuất và đầu tư còn thấp, phân phối lưu thông chưa đảm bảo. Đời sống Nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Tình hình đó, đặt ra yêu cầu cho Đảng bộ xã là phải lãnh đạo đổi mới toàn diện, mọi mặt về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, nhưng trước hết là đổi mới về kinh tế.

Thực hiện kế hoạch đại hội cấp cơ sở của Huyện ủy Thanh Chương, tháng 12/1987, Đảng ủy tổ chức Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 1987-1991 tại Hòa Quân với sự tham dự của 197 đảng viên.

Đại hội đã thẳng thắn đánh giá ưu, khuyết điểm của Đảng bộ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội trong nhiệm kỳ vừa qua.

Đại hội đề ra phương hướng cho nhiệm kỳ tới: Vận dụng từng bước, tổ chức thực hiện tốt chỉ thị của Ban Bí thư về khoán sản phẩm trong nông nghiệp và thực hiện tốt các biện pháp k thuật trong gieo cấy để nâng cao năng suất, chú trọng công tác xây dựng văn hóa - xã hội. Đảm bảo quốc phòng, an ninh trên địa bàn. Thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng, chính quyền, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 13 đồng chí, đồng chí Nguyễn Trung Kiên được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Tư Bình được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Nguyễn Xuân Văn được bầu làm Trực Đảng.

Bước vào triển khai thực hiện nghị quyết của đại hội, Đảng bộ xã gặp rất nhiều khó khăn như thời tiết không thuận lợi, bão lụt thường xuyên đã làm hạn chế việc sản xuất. Diện tích gieo trồng bị giảm mạnh, năng suất giảm. Trước tình hình đó, Đảng ủy xã đã chọn những thế mạnh của địa phương để làm đầu tàu, kéo nền kinh tế đi lên. Qua đó đã từng bước đưa kinh tế đi vào ổn định.

Lĩnh vực kinh tế: Đảng bộ và Nhân dân xã Thanh Hương đã nêu cao tinh thần tự lực, tự cường vượt khó vươn lên quyết tâm thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XV đề ra. Trong những năm 1987-1988 dù có khó khăn nhưng thực hiện chương trình lương thực, thực phẩm, Đảng bộ xã đã tập trung đầu tư vốn, vật tư, giống, để đổi mới cơ cấu cây trồng vật nuôi trong nông nghiệp. Tính đến năm 1987, sau 07 năm thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương đã tạo ra bước chuyển biến lớn trong nông nghiệp, năng suất cây trồng, vật nuôi được tăng lên đáng kể, đời sống Nhân dân được cải thiện một bước. Song quá trình triển khai cũng đã bộc lộ một số nhược điểm. Trước tình hình đó ngày 05/4/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10-NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, gọi là “Khoán 10”. Chủ trương giao ruộng, đất cho xã viên và hộ gia đình. Hộ gia đình được coi là đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trên các mặt sở hữu, quản lý và phân phối. Sự ra đời của Khoán 10 có ý nghĩa quan trọng đối với kinh tế nông nghiệp đất nước nói chung và nông nghiệp xã Thanh Hương nói riêng. Đã khơi dậy tiềm năng trong nhân dân, giải phóng sức lao động ở nông thôn, tạo ra động lực quan trọng đối với phát triển kinh tế nông nghiệp. Mặc dù khi Khoán 10 mới ra đời, sự lãnh đạo còn một số lúng túng nhưng người nông dân được làm chủ mọi khâu sản xuất nên rất phấn khởi, đầu tư sức lực cho đồng ruộng dẫn đến năng suất các loại cây trồng bắt đầu tăng lên.

Thực hiện chủ trương của huyện, Đảng bộ xã đã đề ra chủ trương giãn dân, tiến hành cấp đất, đấu thầu đất, giao đất lâu dài để lập vườn nhà, vườn đồi, vườn rừng và khuyến khích mọi thành phần kinh tế và hộ gia đình cùng đầu tư khai thác theo hướng sản xuất hàng hoá. Ủy ban nhân dân xã lập quy hoạch đất đai, ngoài việc cấp đất nhà ở, đất vườn cho các hộ gia đình, còn có tổ chức đấu thầu tạo cho các hộ có điều kiện tham gia đấu thấu đất trang trại. Từ đó đã có nhiều hộ gia đình xin lập vườn mới trên gò đồi, 95% số hộ có đất vườn với diện tích mỗi hộ từ 02 đến 03 sào. Từ kinh nghiệm trong sản xuất “đất nào cây đó” các vườn được trồng các cây chủ yếu như chè, mít, ổi, mía, chuối và rau các loại.

Đối với trồng trọt, xã tích cực chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, mở rộng diện tích lúa vụ hè, lúa mùa sớm để tránh bão lụt, đưa rau màu vụ Đông thành vụ sản xuất chính. Mặt khác, tích cực áp dụng các loại giống chủ lực có năng suất cao và khả năng chịu sâu bệnh tốt vào sản xuất. Tổng diện tích gieo trồng năm 1987 đạt 650 ha đến năm 1989, đạt 750 ha. Năng suất lúa cả năm đạt 450 tấn. Tổng sản lượng quy thóc cả năm đạt 800 tấn.

Trong chăn nuôi, tổng đàn lợn năm 1989 có 2.500 con. Tổng đàn trâu có 1.200 con, bằng 112% kế hoạch. Tổng đàn lợn có 1.300 con, bằng 108,8% kế hoạch. Tổng đàn gia cầm có 15.000 con, bằng 110,8% kế hoạch.

Phong trào trồng cây tiếp tục được giữ vững. Ngoài việc chăm sóc rừng đã trồng, năm 1987 trồng mới 50 ha rừng bạch đàn. Việc trồng cây phân tán bắt đầu được chú trọng. Năm 1989 trồng rừng đạt 80 ha, bằng 100% kế hoạch và đã hoàn thành thiết kế trồng rừng đảm bảo quy trình, kỹ thuật.

 Xây dựng cơ bản được chú trọng hơn, các trục đường giao thông chính của xã đều được tu bổ, sửa chữa rộng rãi, sạch đẹp. Năm 1989, xã huy động 1.000 dân quân làm mương tưới tiêu từ Sừng Bò đi cây Sanh ra đến Hác Dài để phục vụ nước tưới cho 100 ha ruộng. Năm 1991, Đảng ủy xã có chủ trương đưa trụ sở Ủy ban nhân dân xã ở xóm 4 về vùng Cửa Trường xóm 2, nơi có địa hình thuận lợi để sinh hoạt. Đồng thời đưa các trường học từ đỉnh Cồn Cao xuống vùng trung tâm xã và xây dựng trường học mới. Hệ thống kênh tưới, giao thông nông thôn được tu sửa và nâng cấp hàng năm.

Hợp tác xã Mua bán, bước vào thực hiện cơ chế kinh tế mới, tự hạch toán kinh doanh, do không đủ khả năng về nguồn vốn, về năng lực điều hành hoạt động dẫn đến giải thể.

Hợp tác xã Tín dụng, sau một thời gian dài hoạt động, khi bước vào cơ chế thị trường có gặp một số lúng túng nên chủ trương của Nhà nước là giải thể, chấm dứt hoạt động.

Năm 1990 xã có chủ trương xây dựng vùng kinh tế mới ở xóm 6 (vùng chăn nuôi). Trong các năm 1991-1992 đã thu hút nhiều hộ dân tới làm ăn sinh sống.

Lĩnh vực văn hóa - xã hội: Hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao trong hơn hai năm qua đã có nhiều chuyển biến.

Đối với giáo dục đào tạo, giai đoạn này mặc dù đã giành được nhiều kết quả quan trọng nhưng bên cạnh đó công tác giảng dạy còn gặp nhiều khó khăn nhất là về cơ sở vật chất cho các cấp học.

Về y tế được củng cố phát triển chăm lo đời sống sức khỏe của nhân dân. Đội ngũ cán bộ y tế được đào tạo nghiệp vụ. Chấp hành chỉ thị công tác sinh đẻ có kế hoạch. Giảm dân số xuống 2,1%, một phần nhằm tạo điều kiện nâng cao đời sống cho nhân dân về vật chất và tinh thần.

Công tác chính sách xã hội cũng được giải quyết tốt. Kịp thời cấp phát chế độ cho các gia đình chính sách, điều hòa lương thực của hợp tác xã được đảm bảo giúp đỡ trong lúc khó khăn, lũ lụt.

Lĩnh vực quốc phòng, an ninh: Mặc dù tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, đặc biệt có những hành động chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch trong và ngoài nước nhưng quốc phòng, an ninh vẫn được đảm bảo. Quán triệt tinh thần nghị quyết của Trung ương, Tỉnh uỷ, Huyện uỷ, Đảng uỷ xã đã triển khai học tập nghị quyết trong Đảng bộ và Nhân dân. Ban Chấp hành Đảng bộ chỉ đạo xã đội lập phương án tác chiến và triển khai xây dựng cụm phòng thủ, xây dựng 01 trung đội cơ động chiến đấu. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự theo chương trình hàng năm. Công tác tuyển quân hàng năm đạt 100% đúng thời hạn và đảm bảo chất lượng. Trong nhiệm kỳ đã gọi 45 thanh niên khám tuyển nghĩa vụ và có 11 thanh niên lên đường nhập ngũ.

Trong công tác an ninh, số vụ án xảy ra năm sau ít hơn năm trước, năm 1990 có 07 vụ vi phạm có 35 đối trượng, đã x06 vụ 30 đối trượng, còn 01 vụ 05 đối tượng chuyển lên công an huyện xử lý. Năm 1991 có 04 vụ vi phạm 28 đối tượng đã xử lý cả 28 đối tượng, phối hợp với lực lượng quân sự và công an huyện ngăn chặn nhiều vụ khai thác lâm sản trái phép. Những kết quả đạt được trong công tác quốc phòng, an ninh đã tác góp phần vào việc hoàn thành các nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ đề ra, tạo niềm tin cho quần chúng nhân dân.

Công tác xây dựng Đảng: Trong lúc Đảng ta đang thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, tình hình thế giới lại diễn biến phức tạp, trước tình hình đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ V từ ngày 14 đến ngày 20/6/1988, ra Nghị quyết: “Một số vấn đề cấp bách về công tác xây dựng Đảng, bảo đảm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng”. Thực hiện Nghị quyết Trung ương V (khóa VI), triển khai thực hiện Chỉ thị 04 của Bộ Chính trị, Đảng uỷ đã tổ chức hội nghị quán triệt cho cán bộ, đảng viên và bàn biện pháp đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng bộ kết hợp với việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của xã mà nghị quyết Đảng bộ xã đã đề ra.

Qua đợt học tập, cán bộ, đảng viên đã nghiêm túc liên hệ, kiểm điểm những ưu điểm, tồn tại, thiếu sót. Trước tình hình thế giới diễn biến phức tạp, những khó khăn của đất nước, của xã, đa số cán bộ, đảng viên vẫn tỏ rõ bản lĩnh kiên định, vững vàng tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, đã phát huy tốt vai trò tiên phong và năng lực lãnh đạo, tích cực ủng hộ công cuộc đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, kiên quyết đấu tranh chống lại những tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ỷ lại và những tư tưởng lệch lạc khác.

Công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ có những chuyển biến tích cực. Việc bồi dưỡng, kết nạp đảng viên mới được Đảng uỷ quan tâm triển khai chặt chẽ, đảm bảo các quy định. Công tác kiểm tra, xử lý kỷ luật đảng viên tiến hành nghiêm túc đúng nguyên tắc Điều lệ của Đảng. Hai năm qua thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng bộ xã Thanh Hương đã biết nắm bắt và vận dụng sáng tạo các nghị quyết của Đảng và Nhà nước để định hướng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm.

Công tác kiểm tra được tiến hành thường xuyên có tác dụng tốt trong việc ngăn chặn những sai phạm, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ. Trong nhiệm kỳ đã tiến hành nhiều đợt kiểm tra đảng viên, qua kiểm tra số đảng viên chấp hành tốt chiếm 90,2%, đảng viên còn có khuyết điểm là 5,62%, đảng viên vi phạm là 2,18%, tổ chức Đảng vi phạm 4,5%.

Cuối năm 1990 tính hình trên thế giới có nhiều chuyển biến phức tạp, Đảng bộ xã tổ chức họp bất thường và khẳng định tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang của quê hương Xô viết trong thời kỳ mới, củng cố phát huy những thắng lợi đã đạt được, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, kiên quyết đấu tranh, khắc phục khuyết điểm, uốn nắn những lệch lạc trong nhận thức chính trị, trong các hoạt động kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, xây dựng Đảng, trong quan hệ giữa Đảng với nhân dân và trong công tác vận động quần chúng của Đảng.

II. LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC (1991 - 2000)

Thực hiện kế hoạch Đại hội cấp cơ sở của Huyện ủy Thanh Chương, tháng 10/1991, Đảng ủy tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 1991-1994 tại Hội trường xã với sự tham dự của 201 đảng viên.

Đại hội đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ nhiệm kỳ qua, mặc dầu tình hình đất nước, địa phương còn gặp nhiều khó khăn nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, xã đã khắc phục khó khăn, vươn lên hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ mà nghị quyết Đại hội đã đề ra. Chính quyền đã làm tốt việc giao khoán đất đai cho người dân tự chủ trong sản xuất theo chủ trương của Nhà nước. Hợp tác xã đã chủ động chuyển sang đảm nhận các khâu dịch vụ phục vụ sản xuất; hoạt động văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, công tác chính sách xã hội được quan tâm; công tác an ninh, quốc phòng được tăng cường; hoạt động của chính quyền, mặt trận và các đoàn thể có nhiều đổi mới, từng bước đáp ứng nhu cầu trong tình hình mới; công tác xây dựng Đảng được quan tâm, Đảng ủy thường xuyên chăm lo giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, đào tạo đội ngũ cán bộ, tập trung xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh.

Bên cạnh đó, đại hội cũng nghiêm túc chỉ ra những hạn chế còn tồn tại trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo cần tập trung khắc phục trong nhiệm kỳ tới đó là: còn lúng túng khi thực hiện cơ chế khoán mới, thiếu năng động trong chỉ đạo các ngành kinh tế; văn hóa - xã hội tuy có bước phát triển nhưng chưa đồng bộ; một bộ phận cán bộ từ xã đến thôn còn mang nặng tư tưởng bao cấp, năng lực còn hạn chế...

Đại hội đã đề ra phương hướng cho nhiệm kỳ tới đó là: Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, phát triển chăn nuôi, khai thác, trồng rừng có hiệu quả để tăng thu nhập, nâng cao đời sống, tiến tới tự túc lương thực, thực phẩm, phấn đấu hộ gia đình có dự trữ lương thực; phát triển kinh doanh, dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm, làm nghề phụ để phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho người dân; phấn đấu thực hiện thành công các công trình xây dựng cơ bản như: trường học, trạm y tế, đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động văn hoá - xã hội, tạo việc làm, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội. Giữ vững an ninh chính trị, phát huy dân chủ, tăng cường đoàn kết, xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh.

Đại hội bầu Ban Chấp hành mới có 13 đồng chí[36], đồng chí Nguyễn Văn Hùng được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Tư Bình được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Nguyễn Trung Kiên được bầu làm Trực Đảng.

Bước vào thực hiện nghị quyết đại hội các cấp đề ra, Thanh Hương gặp rất nhiều khó khăn, thử thách nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, xã đã giành được nhiều kết quả trên các lĩnh vực.

Lĩnh vực kinh tế: Với thế mạnh nông nghiệp, vì vậy Đảng ủy xã chú trọng thúc đẩy về trồng trọt, chăn nuôi và khai thác, bảo vệ rừng có hiệu quả. Nhìn chung cơ cấu kinh tế nông nghiệp và cơ cấu kinh tế - xã hội nông thôn có sự chuyển dịch và thay đổi dưới ánh sáng Nghị quyết Đảng lần thứ VI, VII và Nghị quyết số 05 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Các hình thức kinh tế mới hình thành và phát triển mạnh, trong đó kinh tế hộ gia đình thực sự là đơn vị kinh tế tự chủ.

Trong phát triển kinh tế đã từng bước đổi mới phương thức sản xuất, chú trọng chuyển giao giống cây, con có năng suất và chất lượng cao vào nuôi, trồng, áp dụng khoa học vào thâm canh sản xuất. Quy hoạch lại diện tích gieo trồng, mở rộng diện tích trồng cây lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá, thị trường mới và làm ổn định đời sống người nông dân. Diện tích gieo trồng và sản lượng tăng nhanh. Trong đó, sản lượng lương thực quy thóc cuối nhiệm kỳ đạt 1.600 tấn, bình quân đầu người 18 kg/người/tháng. Xã hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.

Nhiều mô hình sản xuất mới ra đời, vườn nhà, vườn đồi, vườn rừng, trang trại… Trong chăn nuôi, đàn gia súc tiếp tục phát triển về số lượng và chất lượng. Xã khuyến khích hộ gia đình xã viên tự phát triển chăn nuôi theo khả năng của mình. Từ đó, đã có nhiều hộ nuôi từ 05 con trâu, bò trở lên. Đàn lợn được chú trọng, bình quân xuất chuồng từ 60-70 kg/con/năm. Tính bình quân đến năm 1994, mỗi hộ gia đình nuôi 2,6 con trâu, bò, 1,6 con lợn. Chăn nuôi phát triển, đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện.

Lâm nghiệp, tăng cường công tác bảo vệ, khai thác rừng có hiệu quả, hạn chế việc phá rừng, công tác trồng rừng đã được khơi dậy. Trong nhiệm kỳ đã trồng được 200 ha rừng, một số hộ bước đầu đã triển khai làm mô hình VAC.

Công tác quản lý hợp tác xã nông nghiệp, Đảng bộ đã chỉ đạo triển khai thực hiện khoán trong hợp tác xã. Đã giao quyền sử dụng đất đai, tư liệu sản xuất như trâu, bò, nông cụ cho hộ gia đình xã viên. Năm 1993, hợp tác xã tổ chức đại hội quyết toán trước xã viên và thống nhất chuyển đổi mô hình sang Ban Nông nghiệp. Đến năm 1994, các địa bàn dân cư trong toàn xã chuyển sang xây dựng mô hình cấp thôn, Ban lãnh đạo cấp thôn là cánh tay nối dài của Ủy ban nhân dân xã điều hành phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội.

Cấp ủy, chính quyền đã tạo hành lang pháp lý cho người dân mở rộng kinh doanh và dịch vụ trên các lĩnh vực đưa lại hiệu quả thiết thực. Tiểu thủ công nghiệp, với nguồn vốn tích lũy được nhiều hộ dân đã sắm máy xay xát, máy tuốt lúa, máy bơm nước cỡ nhỏ. Tuy số lượng còn ít nhưng phần nào đã giảm bớt sức lao động cho người dân.

Xây dựng cơ bản có nhiều tiến bộ, mặc dù kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nhưng Đảng bộ đã chỉ đạo xã cùng với nhân dân đóng góp tiền của để đầu tư xây dựng, tu sửa nhiều công trình trọng điểm như: trường học, trạm y tế, các công trình thủy lợi, giao thông nông thôn, đường điện... Về thủy lợi, xã được dự án Oxpam (của tổ chức quốc tế) đầu tư để xây dựng đập nước tại khe Nhà Đinh để phát triển kinh tế. Cũng thời gian này, xã đầu tư kéo đường điện 110 kw từ trạm biến áp số 1 cây Sanh lên hóc Nhà Lượt để xây dựng trạm biến áp số 2.

Lĩnh vực văn hóa - xã hội: Các hoạt động văn hóa, xã hội cũng phát triển đa dạng và phong phú hơn những năm trước. Bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi, nhất là sau khi có điện thắp sáng. Có điện, đời sống tinh thần cũng như vật chất có sự thay đổi nhanh chóng. Các phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao được chú trọng tạo bầu không khí vui tươi trong người dân.

Đối với giáo dục đào tạo trong giai đoạn đã có nhiều cố gắng. Cơ sở vật chất được quan tâm nâng cấp, tu sửa. Tỷ lệ học sinh đến trường tăng, trong đó đối với mầm non đạt 94,5%, tiểu học 97%, trung học cơ sở 98%. Chất lượng giao dục ngày càng được nâng lên, tỷ lệ học sinh đỗ vào cấp 3 năm sau cao hơn năm trước. Tỷ lệ học sinh bỏ học giảm, các em có hoàn cảnh khó khăn được quan tâm.

Về y tế, đội ngũ cán bộ của trạm được bổ sung 02 người, các thiết bị y tế được đầu tư mua sắm. Được sự quan tâm giúp đỡ của y tế huyện, trạm y tế xã đã đi vào hoạt động tốt hơn. Trạm phục vụ chu đáo cho bệnh nhân, thực hiện nề nếp chế độ trực điều trị bệnh nhân tại trạm 24/24 giờ. Làm tốt công tác tuyên truyền chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân, khám và điều trị hàng trăm lượt người. Trạm y tế đã phối hợp với Ban kế hoạch hóa của xã và các tổ chức đoàn thể, tuyên truyền vận động cán bộ, đảng viên và người dân thực hiện tốt kế hoạch hóa gia đình. Vận động những người trong độ tuổi sinh đẻ dùng các biện pháp tránh thai. Từ đó đã góp phần giảm tỷ lệ gia tăng dân số, đến năm 1993 còn 2,61%.

Đảng bộ và chính quyền xã thường xuyên chăm lo công tác chính sách hậu phương quân đội, các gia đình thương binh liệt sỹ, các gia đình chính sách khi gặp khó khăn. Đảng bộ đã lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể quần chúng, giúp đỡ những gia đình chính sách khi gặp khó khăn. Hàng năm, địa phương đã chi ra hàng triệu đồng ngân sách, trợ cấp cho một số gia đình khó khăn, hay bị thiên tai bão lụt, hoặc trong các dịp lễ, tết.

Quốc phòng an ninh được củng cố và kiện toàn. Chính quyền địa phương đã chăm lo xây dựng lực lượng, tăng cường giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự đảm bảo chất lượng. Lực lượng dân quân đã làm tốt công tác phòng, chống bão, lũ, cứu hộ, cứu nạn… Hàng năm, xã làm tốt công tác tuyển quân, đạt 100% kế hoạch trên giao. Trong nhiệm kỳ 51 thanh niên tham gia khám tuyển, trong đó có 25 thanh niên lên đường nhập ngũ.

Xác định nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, chống âm mưu “diễn biến hoà bình” gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch là nhiệm vụ quan trọng, cấp ủy đã đề ra chương trình hành động cho từng năm. Năm 1992, Đảng uỷ tổ chức sơ kết 02 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8B (Khoá VI) về “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân” để đánh giá những việc làm được cũng như tồn tại, thiếu sót trong công tác vận động quần chúng của Đảng bộ, đề ra những nhiệm vụ, biện pháp nhằm tiếp tục thực hiện nghị quyết Trung ương và nghị quyết của hội nghị Tỉnh ủy ngày 14/4/1992. Từ đó, xã đã làm tốt công tác an ninh trật tự trên địa bàn, trong nhiệm kỳ đã xử lý 15 vụ việc gây rối an ninh trật tự trên địa bàn.

Công tác xây dựng Đảng: Công tác chính trị, tư tưởng luôn được Đảng ủy quan tâm. Đảng ủy đã tổ chức học tập, quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) đề ra “Một số nhiệm vụ đổi mới chỉnh đốn Đảng, công tác đối ngoại và quốc phòng an ninh”. Thực hiện sự chỉ đạo của Huyện uỷ, Đảng uỷ xã đã tổ chức cho toàn bộ đảng viên quán triệt, học tập nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VII, Nghị quyết số 3 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Qua học tập đã giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nâng cao nhận thức, củng cố lòng tin, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và khó khăn trong nước; tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, vươn lên hoàn thành tốt các mục tiêu, nhiệm vụ mà nghị quyết đại hội đã đề ra.

Đảng ủy đã tăng cường chỉ đạo củng cố tổ chức các ban, ngành, các chi bộ, tập trung nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên. Trong nhiệm kỳ đã cử 08 đồng chí đi học trung cấp chính trị, 06 đồng chí học đi học lớp quản lý Nhà nước. Hàng năm có trên 80% đảng viên “Hoàn thành tốt nhiệm vụ”, không có đảng viên “Không hoàn thành nhiệm vụ”. Đảng bộ đạt danh hiệu “Hoàn thành tốt nhiệm vụ”. Trong nhiệm kỳ kết nạp được 11 đảng viên mới.

Ban kiểm tra đã bám sát kế hoạch kiểm tra toàn khóa, kịp thời cụ thể hóa từng năm để tăng cường công tác kiểm tra, giám sát với phương châm hướng về cơ sở, kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh những tư tưởng lệch lạc, những biểu hiện thiếu tiên phong gương mu của cán bộ, đảng viên góp phần nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên để tập trung xây dựng Đảng bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trong nhiệm kỳ đã kiểm tra được 12 lượt, xử lý 18 đảng viên (16 khiển trách, 02 cảnh cáo).

Trong công tác dân vận, Đảng ủy đã tập trung vận động, tuyên truyền nhân dân tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, đoàn kết thi đua lao động, sản xuất, chủ động và mạnh dạn chuyển đổi cơ cấu sản xuất, đoàn kết giúp nhau xóa đói, giảm nghèo vươn lên làm giàu chính đáng. Vận động người dân hiến đất, hiến cây để mở rộng đường giao thông và các công trình phúc lợi.

Thực hiện kế hoạch đại hội cấp cơ sở của Huyện ủy Thanh Chương, tháng 5/1994, Đảng ủy tổ chức Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 1994-1996 tại Hội trường Ủy ban xã với sự tham dự của 211 đảng viên.

Đại hội đánh giá lại những thành tựu và hạn chế của nhiệm kỳ vừa qua, trong đó nhấn mạnh: Trải qua 03 năm phấn đấu thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 1991-1994, xã nhà đã có nhiều cố gắng, khắc phục dần tình trạng trì trệ, vươn lên giành được những thành tựu quan trọng. Kinh tế tăng trưởng khá; văn hoá, xã hội có bước tiến rõ rệt; đời sống nhân dân được cải thiện; cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; quốc phòng được củng cố, an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội đảm bảo; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được tăng cường từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ…

Tuy vậy, trong nhiệm kỳ qua vẫn còn những hạn chế, tồn tại như: cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ về vấn đề đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, dẫn đến bảo thủ trì trệ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi. Kinh tế tăng trưởng chậm, thu nhập bình quân còn thấp... Tình hình an ninh nông thôn còn tiềm ẩn nhiều phức tạp, vai trò quản lý, điều hành của chính quyền có lúc còn hạn chế…

Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho nhiệm kỳ mới đó là: Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp nông thôn. Phát huy hết tiềm năng sẵn có của địa phương, tận dụng hết đất đai, nguồn lực, đưa các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Tiếp tục chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp. Chú trọng phát triển kinh tế hàng hoá đảm bảo tự túc lương thực, thực phẩm, phát triển kinh tế hộ gia đình. Làm tốt công tác phát triển văn hóa - xã hội; đảm bảo quốc phòng, an ninh trên địa bàn. Tăng cường xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 9 đồng chí, đồng chí Nguyễn Văn Hùng tiếp tục được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Tư Bình tiếp tục được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Trần Văn Bảo được bầu làm Trực Đảng.

Sau đại hội, Đảng ủy đã tập trung lãnh đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện tốt các nhiệm vụ đề ra và giành được nhiều kết quả.

Lĩnh vực kinh tế: Xã Thanh Hương đã làm tốt công tác điều tra ruộng đất và dân số, trên cơ sở đó để thực hiện tốt các chủ trương của Nhà nước. Tháng 7/1994, Đảng bộ và Nhân dân tiến hành học tập, quán triệt Nghị định số 64. Sau đó là thực hiện việc giao đất lâu dài cho người dân. Trên cơ sở giao đất lâu dài cho người dân, Đảng bộ đã lãnh đạo người dân tập trung đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ, đầu tư thâm canh tăng năng suất. Chuyển đổi cây trồng, chỉ đạo giảm dần diện tích giống lúa cũ, tăng dần diện tích giống mới ở những nơi có điều kiện phù hợp. Chú trọng công tác thủy lợi để đảm bảo nước tưới tiêu cho sản xuất. Nhờ đó năng suất lúa bình quân đạt 3,5 tấn/ha, năng suất ngô bình quân 04 tấn/ha. Đối với cây màu, chuyển một số diện tích trồng khoai, sắn sang trồng cây lạc… Bình quân lương thực đầu người đạt 210 kg/người/năm.

Trong chăn nuôi, ngoài việc chăn nuôi trâu bò để đảm bảo sức kéo còn phục vụ hàng hóa thì người dân đã chú trọng vào phát triển đàn lợn. Từ đó, đàn lợn tăng cả về số lượng lẫn chất lượng. Bình quân, giai đoạn này 05 đến 07 hộ gia đình có một hộ chăn nuôi lợn nái. Tổng đàn gia cầm phát triển nhanh hơn so với các nhiệm kỳ trước. Công tác phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm được quan tâm chỉ đạo thường xuyên.

Đối với lâm nghiệp, đã quy hoạch và khoanh nuôi, bảo vệ được 1.200ha rừng. Một số hộ dân đã tự bỏ vốn khoanh vùng trồng cây để làm nguyên liệu, ươm cây giống lâm nghiệp. Công tác phòng, chống cháy rừng được đề cao, quản lý, khai thác rừng có hiệu quả. Thu nhập từ lâm nghiệp hàng năm tăng lên đáng kể.

Tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ phát triển mạnh. Các ngành nghề truyền thống được duy trì mở rộng và phát triển. Nhiều hộ dân đã tận dụng và khai thác vật liệu xây dựng để bán. Một số đã đầu tư mua xe công nông, máy xay xát, để kinh doanh vận chuyển và tận dụng máy xay xát để phục vụ cho chăn nuôi. Một số hộ phát triển làm mộc dân dụng, may mặc, rèn để phát triển kinh tế.

Xây dựng cơ bản có bước phát triển hơn so với nhiệm kỳ trước. Trên cơ sở huy động nội lực của nhân dân và sự hỗ trợ của Nhà nước. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt 1,2 tỷ đồng, trong đó chủ yếu tập trung cho xây dựng thủy lợi, giao thông, trường học, trạm y tế và các công trình phúc lợi khác.

Lĩnh vực văn hóa - xã hội: Cùng với sự phát triển kinh tế, các hoạt động văn hoá, xã hội cũng có những bước tiến đáng kể. Phong trào văn nghệ, thể dục, thể thao được duy trì và phát triển. Ngoài hoạt động văn nghệ trong các trường học, Đoàn Thanh niên xã còn thường xuyên tổ chức các hoạt động sôi nổi như hội diễn văn nghệ quần chúng, thu hút đông đảo người dân tham gia. Các hoạt động thể thao như bóng đá, bóng chuyền cũng được tổ chức thường xuyên. Hàng năm đã tổ chức các giải bóng đá, bóng chuyền nam, nữ thu hút đông đảo người dân tham gia. Công tác thông tin tuyên truyền của báo cáo viên đã thường xuyên bám sát nhiệm vụ của địa phương. Hình thức và nội dung thông tin được đổi mới, đáp ứng nhu cầu của người dân. Vào những dịp lễ, tết, hoạt động văn hoá, văn nghệ diễn ra phong phú, sôi nổi.

Công tác giáo dục có sự chuyển biến tích cực. Bằng nguồn vốn của nhân dân đóng góp và sự hỗ trợ của Nhà nước, trường học được xây dựng kiên cố và mở rộng. Cảnh quan trường học có nhiều thay đổi. Vai trò lãnh đạo của chi bộ Đảng ở trong các trường học luôn được củng cố và hoạt động hiệu quả. Hội phụ huynh có nhiều đóng góp tích cực giúp đỡ các nhà trường làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục. Phong trào thi đua học tốt, dạy tốt được triển khai tích cực, số lượng học sinh tăng lên đáng kể.

Trạm y tế đã làm tốt công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân. Việc khám thai định kỳ và hộ sinh được tiến hành với các phương tiện mới. Mỗi năm có hàng chục trẻ em chào đời tại trạm xã. Trạm y tế đã tổ chức các đợt khám phụ khoa và đặt vòng tránh thai cho chị em. Công tác vệ sinh, phòng bệnh đi vào chiều sâu. Các bệnh sốt rét, sốt xuất huyết, bệnh tả, lị được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, không để thành dịch. Số gia đình có giếng xây, nhà vệ sinh, nhà tắm nhiều hơn trước. Tỷ lệ gia tăng dân số đã giảm xuống, năm 1994 tỷ lệ sinh là 2,77% đến năm 1995 là 2,27%, tỷ lệ dân số tự nhiên giảm từ 1,77% năm 1994 xuống còn 1,57% năm 1995.

Công tác chính sách xã hội được xã quan tâm. Việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có công với nước được tiến hành đầy đủ, kịp thời đã khơi dậy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” cho thế hệ trẻ. Những ngày lễ, tết ngoài quà của Nhà nước, xã còn trích một phần ngân sách thăm, tặng quà động viên thăm hỏi các đối tượng chính sách. Những việc làm đó không những thể hiện trách nhiệm của thế hệ trẻ, những người đang hưởng nền độc lập, tự do mà lớp cha, anh đã phải đổi bằng cả tuổi trẻ và xương máu của mình, thể hiện những tình cảm tốt đẹp của Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể đối với gia đình có công với nước.

Công tác quốc phòng, an ninh trên địa bàn luôn được đảm bảo. Đối với quốc phòng, xã đã tập trung xây dựng lực lượng, làm tốt công tác tuyên truyền cho thanh niên đến độ tuổi tham gia thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự. Từ đó, hàng năm xã đã tổ chức vận động, khám tuyển và giao quân đạt chỉ tiêu do cấp trên giao. Tham gia giải quyết tốt các vụ việc xẩy ra trên địa bàn như, phòng, chống bão, lũ, cứu hộ, cứu nạn…

Công tác an ninh, xã thường xuyên phát động phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh, an toàn trên địa bàn. Xây dựng thế trận an ninh nhân dân, cùng với việc tuyên truyền giáo dục pháp luật nâng cao nhận thức và chấp hành pháp luật cho người dân. Trong nhiệm kỳ, lực lượng công an đã giải quyết nhiều vụ việc thiết thực, bắt và giải quyết 15 vụ vi phạm. Từ đó, an toàn trật tự xã hội trong địa bàn toàn xã đã được giữ vững, hạn chế các vụ việc tiêu cực xẩy ra, tạo niềm tin cho quần chúng.

Công tác xây dựng Đảng: Công tác chính trị, tư tưởng có bước chuyển biến đáng kể. Đảng ủy đã tăng cường quán triệt các nghị quyết, giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức, lập trường quan điểm cho cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ.

Công tác tổ chức và đảng viên được thực hiện tốt. Một số cán bộ cấp uỷ, chính quyền được tạo điều kiện cử đi tập huấn và đào tạo tại các trường chính trị và chuyên môn. Trình độ nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên ngày càng được nâng cao. Vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng và đảng viên đối với các hoạt động được thể hiện rõ nét. Nhiều cán bộ, đảng viên không những có năng lực công tác mà còn vươn lên làm giàu chính đáng trong xây dựng kinh tế và phát triển quê hương. Số lượng cấp uỷ, cán bộ, đảng viên xếp loại yếu giảm so với trước. Đảng viên loại 1 tỷ lệ đạt 82%, chi bộ khá chiếm tỷ lệ 85%.  Trong quá trình công tác, cán bộ, đảng viên luôn luôn gương mẫu đi đầu trong các phong trào, nghiêm túc thực hiện các quy định của địa phương, từ đó quần chúng làm theo. Đảng ủy đã quan tâm rèn luyện giáo dục, những quần chúng xuất sắc được bồi dưỡng để kết nạp vào Đảng. Kết quả, trong nhiệm kỳ đã kết nạp được 17 đảng viên mới.

Đối với công tác kiểm tra, Ban Chấp hành Đảng bộ và Ủy ban kiểm tra đã bám sát kế hoạch kiểm tra, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời uốn nắn những hạn chế, khuyết điểm, đồng thời biểu dương những đảng viên, tổ chức đảng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nghiêm khắc xử lý những đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng. Trong nhiệm kỳ đã xử lý 01 tổ chức Đảng và 07 cá nhân vi phạm.

Công tác dân vận luôn được Đảng ủy chú trọng. Đảng bộ tập trung vận động cán bộ, đảng viên và quần chúng chấp hành tốt các chính sách, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy định của địa phương. Vận động toàn dân đoàn kết tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, giúp nhau xóa đói, giảm nghèo, chung tay xây dựng quê hương giàu đẹp.

Trong 10 năm đầu thực hiện đường lối đổi mới (1986-1996), cùng với cả nước, Đảng bộ và Nhân dân xã Thanh Hương đã nỗ lực khắc phục khó khăn, hạn chế, yếu kém trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh để phát triển và đã gặt hái được những thành quả đáng ghi nhận. Công cuộc xây dựng nền kinh tế từ cơ chế bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần được tiến hành tích cực, có hiệu quả, tạo ra bước tăng trưởng đáng kể cho địa phương. Chính trị ổn định, quốc phòng, an ninh được củng cố và giữ vững; văn hóa, giáo dục, y tế phát triển, các chính sách an sinh xã hội bước tiến mới. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên, số hộ khá tăng lên, số hộ nghèo giảm xuống, cơ sở vật chất được tu bổ, sửa chữa, đường giao thông được mở rộng, nâng cấp, quyền làm chủ của người dân được phát huy, từ đó đã khơi dậy được tính năng động sáng tạo trong người dân, góp phần thúc đẩy các hoạt động kinh tế, văn hóa - xã hội ngày càng phát triển.

Thực hiện kế hoạch đại hội cấp cơ sở của Huyện ủy Thanh Chương, tháng 12/1996, Đảng ủy tổ chức Đại hội nhiệm kỳ 1996-2000, tại Hội trường Ủy ban xã với sự tham dự của 215 đại biểu.

Đại hội đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã nhiệm kỳ 1994-1996. Về thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, xã nhà đã thực hiện một bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và cơ cấu kinh tế nông thôn. Từng bước phá thế độc canh đi đến phát triển kinh tế toàn diện, phát triển sản xuất thâm canh cây lương thực, đưa các giống mới như giống ngô lai, lúa lai vào sản xuất. Cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng, đời sống văn hoá của nhân dân được nâng lên, nông thôn từng bước đổi mới, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Công tác xây dựng Đảng, mặc dù trong điều kiện tình hình chính trị quốc tế diễn biến phức tạp, nền kinh tế trong nước phát triển theo cơ chế thị trường, còn nhiều khó khăn nhưng những năm qua cán bộ, đảng viên vẫn giữ được bản lĩnh chính trị, quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Cán bộ, đảng viên đã phát huy được vai trò tiên phong gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của xã và cá nhân đảng viên.

Tuy nhiên vẫn còn có những hạn chế như: Tốc độ phát triển kinh tế còn chậm, sản xuất lương thực còn bấp bênh, năng suất thấp. Cây ăn qủa, cây công nghiệp chưa tạo ra được sản phẩm hàng hoá lớn.

Đại hội đề ra các mục tiêu tổng quát cho nhiệm kỳ tới là: Phát huy hết tiềm năng, lợi thế của địa phương, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đưa các giống mới có năng suất cao vào canh tác. Tiếp tục chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ, chuyển đổi một số diện tích đất trồng một vụ lúa sang trồng màu, củng cố hệ thống giao thông, thuỷ lợi. Chú trọng phát triển kinh tế hàng hoá đảm bảo tự túc lương thực, thực phẩm, phát triển kinh tế hộ gia đình, phát triển chăn nuôi. Từng bước xoá đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng. Tăng cường phát triển văn hóa, xã hội; đảm bảo quốc phòng, an ninh; chú trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 13 đồng chí, đồng chí Trần Văn Bảo được bầu làm Bí thư; đồng chí Nguyễn Bá Lý được bầu làm Phó Bí thư, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, đến tháng 9/1997, đồng chí Nguyễn Bá Lý lên làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã; đồng chí Trương Quang Bình được bầu làm Trực Đảng.

Đồng chí Nguyễn Tư Bình không tham gia Chấp hành nhưng vẫn làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã đến tháng 8/1997.

Thực hiện nghị quyết của đại hội Đảng các cấp, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân xã Thanh Hương đã đạt được những thành tựu quan trọng, tạo tiền đề cho thời kỳ phát triển mới trên quê hương.

Lĩnh vực kinh tế: Đối với sản xuất, Đảng bộ tập trung lãnh đạo đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, ứng dụng khoa học kỷ thuật vào sản xuất chăn nuôi. Các giống lúa cấp 1,2,3 chiếm hơn 90% diện tích gieo trồng, giống ngô lai khẳng định thế mạnh với 100% diện tích. Công tác khuyến nông được chú trọng. Xã tổ chức tập huấn được 02 lớp k thuật nuôi cá, 01 lớp k thuật nuôi lợn nái với hơn 200 người tham gia. Sản lượng lương thực đạt 2.700 tấn so với 2.300 tấn đầu nhiệm kỳ. Năng suất lúa đạt 65 tạ/ha năm 1999 so với 60 tạ/ha năm 1995. Bình quân lương thực đầu người đạt 270 kg, tăng so với năm 1995. Năng suất màu tăng khá: n04 tấn/ha, lạc 01 tấn/ha, sắn 40 tấn/ha tăng từ 1,3 đến 1,5 lần so với đầu nhiệm kỳ.

Trong chăn nuôi đàn trâu bò 3.000 con, đàn lợn 4.500 con. Chương trình cải tạo đàn bò được bà con nông dân tiếp nhận. Đàn gia cầm tăng nhanh, các giống gà mới, cho năng suất cao như Tam Hoàng đã được đưa vào chăn nuôi.

Lâm nghiệp, xã đã trồng mới 306 ha rừng theo Chương trình 327 và Chương trình 661, khoanh nuôi bảo vệ 1.000ha. Công tác bảo vệ rừng có nhiều chuyển biến tích cực. Sự phối hợp giữa địa phương và các cơ quan bảo vệ lâm luật ngày càng có hiệu quả. Năm 1997, toàn xã cấp 1.000 bìa đỏ cho người dân theo Nghị định số 64 của Chính phủ.

Dịch vụ, thương mại tổng hợp của xã bước đầu có nhiều chuyển biến. Một số ngành nghề phát triển, có 36 người làm nghề mộc, 26 người làm thợ nề, 55 người làm nghề may, 122 máy cơ khí máy công cụ nhỏ, thị trường lao động đã được hình thành. Tỷ trọng dịch vụ và các nguồn thu khác từ 13% đầu nhiệm kỳ đến cuối nhiệm kỳ tăng lên gần 20%.

Xây dựng cơ bản, trong nhiệm kỳ, xã đã xây dựng được đường điện khí hóa nông thôn để phục vụ cho nhân dân, xây mới 20 phòng học cấp 4 trị giá hơn 300 triệu đồng, trong đó: vốn Nhà nước cấp hơn là 50%, còn lại nhân dân đóng góp. Năm 1998, đơn vị bộ đội 324 về giúp xã làm đường giao thông từ cây Sanh đi Ba Bến. Tu sửa lại đập Cồn Cao, cống Đá Đen, xây dựng trạm biến áp số 2 theo chương trình điện khí hóa nông thôn. Chuyển chợ cây Sanh vào khu vực Bưu điện theo quy hoạch.

Lĩnh vực văn hóa - xã hội: Xã đã triển khai phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa. Cuộc vận động thực hiện nếp sống mới trong cưới hỏi, ma chay bước đầu có chuyển biến tốt, tệ mê tín dị đoan từng bước bị đẩy lùi. Đặc biệt chú trọng khôi phục văn hóa cổ truyền. Xã xây dựng được 01 đội văn nghệ quần chúng. Phong trào thể dục, thể thao phát triển khá, đặc biệt là bóng đá của thanh thiếu niên. Phong trào xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa đạt kết quả khá, có hơn 50% hộ gia đình được công nhận “Gia đình văn hóa”. Năm 1999 xã đề ra và thực hiện tốt chủ trương xây dựng và đưa công trình Bưu điện Văn hóa xã đi vào hoạt động.

Lĩnh vực giáo dục đào tạo có nhiều tiến bộ vượt bậc. Toàn xã có 03 cấp học với hơn 1.000 học sinh. Năm năm qua đã khơi dậy phong trào xã hội hóa giáo dục sâu rộng, huy động sức dân tạo nên một khối lượng vật chất to lớn phục vụ dạy và học, xã hội quan tâm đến giáo dục hơn, học sinh chăm học hơn. Từ năm 1996 đến năm 2000, xã có 20 em thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp.

Trạm y tế đã có nhiều cố gắng trong việc chăm sóc sức khỏe cho người dân. Các chương trình tiêm chủng mở rộng được lực lượng y tế hoàn thành tốt. Trạm y tế gửi đi đào tạo 01 y sỹ, 10 y tá thôn, tạo nên mạng lưới y tế rộng khắp. Công tác kế hoạch hóa gia đình có nhiều tiến bộ với những bước đi vững chắc, thích hợp. Tỷ lệ phát triển dân số 2,4% của năm 1996 xuống còn 1,6%, tỉ suất sinh hàng năm giảm bình quân 1,4%.

Công tác chính sách xã hội được chú trọng. Xã luôn chăm lo đến các gia đình liệt sĩ, thương binh và các đối tượng chính sách xã hội. Làm hồ sơ hưởng chế độ theo Nghị định số 28/NĐ-CP của Chính phủ cho hàng chục đối tượng, 800 hồ sơ xét khen thưởng huân, huy chương kháng chiến. Xây dựng 02 nhà tình nghĩa trị giá 35 triệu cho hộ chính sách. Thi công xây dựng nhà bia tưởng niệm và nâng cấp nghĩa trang với kinh phí gần 100 triệu đồng, trong đó ngân sách địa phương đóng góp 20 triệu đồng.

Quốc phòng, an ninh trên địa bàn được đảm bảo. Thực hiện chủ trương của cấp trên về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, Đảng uỷ đã triển khai đồng bộ và có hiệu quả trên các lĩnh vực, giáo dục chính trị tư tưởng, xây dựng lực lượng, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, coi đây là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để thực hiện nhiệm vụ này, Đảng uỷ đã quán triệt, triển khai thực hiện Nghị định số 19 của Chính phủ, thực hiện Pháp lệnh dân quân tự vệ và Pháp lệnh dự bị đông viên, chỉ đạo xây dựng cơ sở, thực hiện nhiệm vụ tuyển quân, diễn tập khu vực phòng thủ, xây dựng kế hoạch B, tập huấn kiểm tra cán bộ về nhiệm vụ quốc phòng, về thực hiện công tác hậu phương quân đội, chỉ đạo phối hợp giữa các ngành, kết hợp kinh tế với quốc phòng, xây dựng cụm tuyến an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu. Tháng 4/2000, Đảng uỷ đã tổng kết 10 năm xây dựng cơ sở xã, 04 năm xây dựng cụm tuyến an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu. Công tác gọi thanh niên nhập ngũ luôn hoàn thành chỉ tiêu số lượng giao. Trong nhiệm kỳ, xã có 55 thanh niên lên đường nhập ngũ.

Về công tác an ninh, thông qua phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, quần chúng cung cấp nhiều tin giá trị cho công an xã và các ngành chức năng, giúp cá cơ quan thi hành pháp luật khám phá điều tra các vụ án. Qua 05 năm qua đã xử lý tại xã 122 vụ với 312 đối tượng, chuyển lên trên 19 vụ, gọi răn đe giáo dục 283 đối tượng.

Công tác xây dựng Đảng: Đối với công tác chính trị, tư tưởng, sau đại hội Đảng bộ xã, Đảng uỷ tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (Khoá VII) về đổi mới và chỉnh đốn Đảng, trong đó chú trọng tập trung kiện toàn các cấp uỷ, các chi bộ Đảng, các đoàn thể chính trị phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới mà thực tiễn xã hội đặt ra.

Công tác tổ chức, đảng viên: Đảng uỷ đã có nghị quyết tạo nguồn, đề ra nhiều giải pháp xây dựng bồi dưỡng đảng viên, cán bộ trẻ, như mạnh dạn đưa thanh niên trẻ đảm nhận công tác cán bộ thôn, cán bộ đoàn thể, động viên nhân dân đóng góp quỹ hương ước, quy định chế độ đãi ngộ, chi trả phụ cấp cán bộ đảm đương công việc. Thông qua phong trào hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ xã để bồi dưỡng cán bộ nữ. Quy hoạch đào tạo nguồn bằng cách giao một cán bộ đương chức phải tìm được một cán bộ kế cận để bồi dưỡng. Thực hiện quy chế quản lý cán bộ, tiến hành quy trình bầu cử cán bộ qua các kỳ đại hội Đảng, đoàn thể bảo đảm đúng nguyên tắc theo sự hướng dẫn của cấp trên.

Đảng uỷ đã xây dựng và giữ vững sự điều hành cấp uỷ từ xã đến các chi bộ theo cơ chế hàng tháng, hàng quý, hàng năm, chủ động xây dựng được chương trình công tác, thực hiện nghiêm chế độ xây dựng nghị quyết, xây dựng các chương trình hành động thực hiện nghị quyết, lãnh đạo bằng nghị quyết, phân công nhiệm vụ cho đảng viên. Trong nhiệm kỳ đã kết nạp được 38 đảng viên.

Công tác kiểm tra tổ chức Đảng, đảng viên thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng được tổ chức thường xuyên. Đảng bộ đã xây dựng và duy trì tốt mối quan hệ công tác, từng bước đổi mới phương thức lãnh đạo, duy trì nghiêm túc chế độ hội nghị, hội ý, trực báo... khắc phục tình trạng chồng chéo, ỷ lại giữa cấp uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và các đoàn thể quần chúng. Kết qủa thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) toàn Đảng bộ đã có 98,8% đảng viên tham gia học tập.

Sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình, nhận thức chính trị của cán bộ, đảng viên được nâng lên rõ rệt, nhất là về nguyên tắc dân chủ, các quy định, quy chế, mối quan hệ làm việc giữa Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, được xác định làm rõ, mối quan hệ đoàn kết trong nội bộ được tăng cường. Đồng thời đã xử lý một số đảng viên vi phạm bỏ sinh hoạt Đảng. Trong nhiệm kỳ đã kiểm tra 28 lượt đảng viên, trong đó có 16 chi ủy viên và đảng ủy viên, 12 tổ chức Đảng.

Công tác dân vận, để tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng, hàng tháng, hoặc có những sự kiện lớn, Đảng uỷ chủ trương tổ chức hội nghị Dân, Chính, Đảng, bao gồm đại diện cấp uỷ chi bộ, Trưởng thôn, các đoàn thể chính trị ở cấp thôn, Đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân, Mặt trận, các đoàn thể chính trị ở cấp xã để trao đổi phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân, bàn định các giải pháp thực hiện nhiệm vụ chính trị đề ra trước mắt đạt hiệu quả cao nhất.

Trong nhiệm kỳ (1996-2000), Ban Chấp hành Đảng bộ tập trung chỉ đạo tiếp tục thực hiện Nghị quyết 8B (Khoá VI) về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân, thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

Sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đất nước ta đã thu được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực. Trong thắng lợi chung của cả nước, Đảng bộ và Nhân dân xã Thanh Hương cũng giành được những kết quả đáng tự hào, bộ mặt quê hương có nhiều khởi sắc, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng lên rõ rệt. Bước sang thế kỷ XXI, tiếp tục thực hiện đường lối hội nhập quốc tế, công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội trong thời kỳ mới của cả nước nói chung, Đảng bộ và Nhân dân xã Thanh Hương nói riêng cũng có nhiều thuận lợi nhưng không ít khó khăn thách thức. Phát huy truyền thống cách mạng, rút kinh nghiệm trong thực tiễn 15 năm đổi mới, Đảng bộ đổi mới phương thức lãnh đạo, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, tập trung nguồn lực đầu tư phát triển xây dựng quê hương giàu đẹp.

III. XÃ THANH HƯƠNG TRONG XU THẾ HỘI NHẬP NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI (2000 - 2010)

Thực hiện kế hoạch Đại hội cấp cơ sở của Huyện ủy Thanh Chương, tháng 9/2000, Đảng ủy tổ chức Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 2000-2005, tại Hội trường UBND xã với sự tham dự của 225 đảng viên.

Đại hội đã nghe và thảo luận về báo cáo thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ nhiệm kỳ 1996-2000 và khẳng định những thành tích đạt được trên các lĩnh vực là rất quan trọng: về sản xuất, xã đã huy động gieo trồng phủ kính 100% diện tích, năng suất năm sau cao hơn năm trước, chăn nuôi, trồng rừng phát triển, nhân dân đã chủ động đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh để nâng cao thu nhập, hộ nghèo, đói giảm nhanh; giáo dục được duy trì và phát triển, tỷ lệ trẻ đến trường được nâng lên, tỷ lệ tốt nghiệp cấp 1, cấp 2 tăng cao…; hoạt động của trạm y tế có nhiều chuyển biến tích cực, trong khám chữa bệnh cho nhân dân, làm tốt công tác phòng chống dịch; phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao đi vào chiều sâu, góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho người dân; chính sách xã hội được quan tâm; quốc phòng được đảm bảo, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; công tác xây dựng Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể được chú trọng, cán bộ năng động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong đổi mới tư duy về phương pháp, phong cách lãnh chỉ đạo…

Đồng thời Đại hội cũng chỉ rõ những hạn chế tồn tại như: kinh tế phát triển chưa cân đối, chưa phát huy hết tiềm năng của địa phương.

Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong nhiệm kỳ tới là: Tăng cường khai thác tiềm năng, lợi thế tại chỗ, tranh thủ sự giúp đỡ của cấp trên phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ổn định diện tích canh tác, phân vùng kinh tế, cơ cấu cây trồng, mùa vụ phù hợp, đẩy mạnh công tác chăn nuôi, khai thác, bảo vệ rừng có hiệu quả, mở rộng diện tích nuôi trồng thủy sản, đổi mới quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Toàn Đảng, toàn dân thực hành tiết kiệm, đầu tư cho xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng. Không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân. Từng bước giải quyết các bức xúc của người dân, tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, chống các tệ nạn và tiêu cực khác. Giữ vững an ninh, quốc phòng. Chú trọng công tác xây dựng, củng cố tổ chức Đảng và hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 13 đồng chí, đồng chí Trần Văn Bảo tiếp tục được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Bá Lý, Huyện ủy viên, tiếp tục được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Nguyễn Văn Tư được bầu làm Trực Đảng[37]. Đến tháng 6/2004, đồng chí Nguyễn Văn Tư được bầu làm Bí thư Đảng ủy xã; tháng 10/2004[38] đồng chí Nguyễn Văn Lương được bầu làm Trực Đảng.

Bước vào thực hiện nghị quyết đại hội đề ra, trong bối cảnh tình hình chung có nhiều thời cơ và thách thức mới. Những kết quả đạt được từ các nhiệm kỳ trước tiếp tục phát huy hiệu quả, các tiềm năng thế mạnh trên địa bàn đã và đang được tập trung đầu tư khai thác, kết hợp với những thời cơ, thuận lợi mới xuất hiện… đã tác động tích cực đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và công tác xây dựng Đảng ở địa phương.

Lĩnh vực kinh tế: Đối với sản xuất nông nghiệp, xã Thanh Hướng đã đạt được nhiều kết quả đáng kể như tích cực thực hiện việc dồn điền đổi thửa, chuyển đổi giống, cây trồng có năng suất cao, chống chịu sâu bệnh phù hợp với từng vị trí chất đất của từng cánh đồng và điều kiện thực tế của địa phương. Đầu tư thâm canh áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt chú trọng vào công tác tưới tiêu, công tác phòng trừ sâu bệnh được chú trọng. Kết quả, đến năm 2005, tổng sản lượng lương thực toàn xã đạt 2.850 tấn. Các loại hình trang trại, gia trại phát triển, thúc đẩy phong trào làm kinh tế giỏi, giúp nhau xóa đói, giảm nghèo

Chăn nuôi được giữ vững, từng bước đầu tư giống lai để phát triển tổng đàn và chất lượng đàn. Tổng đàn trâu, của xã đạt trên 1.200 con, đàn lợn hơn 4.000 con, đàn gia cầm trên 16.000 con. Nhiều gia đình coi chăn nuôi lợn là nguồn thu nhập chính. Trong địa phương các mô hình trang trại chăn nuôi tăng nhanh. Diện tích nuôi trồng thủy sản được quy hoạch mở rộng lên 14ha.

Lâm nghiệp có nhiều chuyển biến, các hộ dân đã tích cực trồng rừng nguyên liệu với các cây có thu nhập cao như tràm lá nhỏ và tràm lá to... Diện tích đất rừng được giao cho dân nên hàng năm các vụ cháy rừng đã giảm xuống. Thực hiện Dự án 661 xã đã khoanh nuôi bảo vệ 1.300ha, lập kế hoạch trồng mới gần 100ha rừng, nhiều mô hình trang trại vườn rừng, vườn đồi phát triển có hiệu quả. Việc thực hiện chủ trương giao đất giao rừng đã tạo nên một phong trào phát triển kinh tế rừng mạnh mẽ trong nhân dân. Người dân được cấp bìa, đã mạnh dạn đầu tư tiền của vào trồng cây keo nguyên liệu góp phần nâng cao đời sống.

Tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ phát triển đúng hướng nên chuyển biến nhanh. Nhiều ngành nghề mới ra đời, tạo được việc làm cho người lao động. Tổng số lao động năm 2000 là 145 người đến năm 2005 là 384 người tăng 239 người. Các dịch vụ như vận tải tư nhân, sửa chữa điện tử, xe máy, may mặc khá phát triển.

Đối với cơ sở hạ tầng, xã tiếp tục thực hiện tiêu chí “điện - đường - trường - trạm”. Đảng ủy đã chú trọng đầu tư nguồn vốn vào những hạng mục này để phát triển hạ tầng như kênh mương, đường giao thông, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa các thôn, trạm truyền thanh… Năm 2000, Đảng ủy, chính quyền xã đã quy hoạch xây dựng trung tâm kinh tế, văn hóa - xã hội của xã tại xóm 4 cũ (nay là xóm 2). Ngoài việc quy tụ 3 trường học, cơ quan, chợ, trạm y tế… xã còn bố trí 42 lô đất ở để bán cho người dân để tạo nên khu trung tâm đông đúc. Năm 2001, chuyển Trạm y tế xã từ Hòn Trường và Nghĩa trang Liệt sỹ ở núi Sừng Bò về vùng trung tâm và xây dựng mới. Về giao thông, xã đã vận động hàng trăm hộ dân hiến đất, hiến vườn để mở rộng đường giao thông. Năm 2002, xã có chủ trương làm đường giao thông nông thôn bằng bê tông. Từ đó đã tổ chức lực lượng đánh hàng ngàn quả mìn để xuyên qua rú Am. San ủi hàng ngàn khối đất đá, mở đường đi thẳng vào trung tâm xã, qua điểm cây Sanh Hàm Rồng lịch sử. Xây dựng 06 trạm bơm để phục vụ nước cho sản xuất ở các vùng Cây Sanh, Kẻ Quân, Bãi Hàn, Bãi Dâu, Sừng Bò, xóm 1. Đồng thời xây dựng chợ và các quán dịch vụ. Trong 05 năm, tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản là 12 tỷ 775,54 triệu đồng. Trong đó, vốn do ngân sách xã và nhân dân đóng góp là 5 tỷ 430,54 triệu đồng chiếm 42,5% tổng vốn đầu tư.

Công tác văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao đã có nhiều khởi sắc. Nhất là phong trào văn nghệ quần chúng ở các thôn và các hoạt động thể dục, thể thao như bóng đá, bóng chuyền hàng năm đều được tổ chức vào các dịp lễ Tết. Phong trào xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, gia đình thể thao, xây dựng đời sống văn hóa ở các địa bàn dân cư ngày càng được phát triển. Đến năm 2005 đã có 60% gia đình đạt “Gia đình văn hóa”, 10% gia đình đạt “Gia đình thể thao”.

Công tác xóa đói giảm nghèo có nhiều kết quả. Tỷ lệ hộ nghèo đói năm 2000 là 17% đến năm 2005 còn 9,6% giảm 7,4%. Công tác giải quyết việc làm có nhiều chuyển biến tích cực. Xã đã tổ chức đoàn đi thăm quan thực tế tại xã Cương Gián, huyện Nghi Xuân, nơi có phong trào đi xuất khẩu lao động nước ngoài rất hiệu quả. Qua đi thực tế, xã đã có chủ trương vận động con em đi xuất khẩu, từ đó hàng năm có từ 15-20 người đi xuất khẩu lao động đi nước ngoài. Chính quyền chỉ đạo tốt công tác vay vốn xóa đói giảm nghèo. Tính đến quý I năm 2005, toàn xã đã có gần 1.007 người vay với số tiền 1,5 tỷ đồng.

Giáo dục đào tạo đã có những bước tiến mới. Chất lượng và hiệu quả trong học tập ngày càng nâng cao, tỷ lệ lên lớp cuối năm đạt trên 90%. Các trường tiểu học và trung học cơ sở đã phổ cập đúng độ tuổi. Cơ sở vật chất được đầu tư và nâng cấp. Tỷ lệ tốt nghiệp bình quân của cấp tiểu học đạt 100%, trung học cơ sở đạt 96-98%, số học sinh tốt nghiệp cấp 3 đạt 98%. Học sinh thi đ các trường đại học, cao đẳng bình quân mỗi năm 6-7 em. Các trường Tiểu học và Mầm non được công nhận là trường chuẩn Quốc gia giai đoạn 1.

 Công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân đã có nhiều tiến bộ. Trạm y tế đã thực hiện tốt các chương trình Quốc gia về y tế, triển khai thực hiện có hiệu quả, chất lượng khám và chữa bệnh được nâng lên, cơ sở vật chất, trang thiết bị được đầu tư. Đội ngũ y tế được quan tâm đào tạo. Trạm y tế xã đã có bác sỹ về làm việc, phục vụ khám, chữa bệnh cho người dân. Công tác phòng chống dịch bệnh được thực hiện có hiệu quả. Hàng năm có trên 1.752 lượt người được khám và điều trị tại trạm y tế. Bình quân hàng năm từ 12-15 ngàn lượt tiêm chủng cho trẻ em theo độ tuổi đạt 98%. Công tác kế hoạch hóa gia đình được chú ý, tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên giảm xuống còn 1,75% vào năm 2005.

Công tác chăm lo cho gia đình chính sách, người có công với cách mạng được thực hiện tốt. Hàng năm cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể thường xuyên có quà, thăm hỏi vào các dịp lễ tết. Chính sách xóa đói giảm nghèo được thực hiện tốt, tỷ lệ hộ nghèo đói giảm 2%.

Lĩnh vực quốc phòng, an ninh được chú trọng. Quán triệt nghị quyết của Đảng về công tác quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, cấp ủy Đảng, chính quyền đã tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Từng bước xây dựng các địa bàn dân cư an toàn làm chủ, xây dựng thế trận lòng dân, gắn an ninh quốc phòng với phát triển kinh tế, tập trung tổ chức tốt hơn công tác giáo dục chính trị, giáo dục quốc phòng nâng cao nhận thức cho nhân dân. Thực hiện nghiêm túc công tác gọi thanh niên khám tuyển nghĩa vụ quân sự hàng năm. Trong công tác huấn luyện, hàng năm đều đạt đơn vị khá, trong 5 năm 2000-2005 đã 30 đồng chí đoàn viên thanh niên lên đường nhập ngũ.

Về an ninh, xã đã thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 08 khóa VIII của BChính trị về “Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia và các chương trình phòng chống tội phạm, phòng chống các tệ nạn xã hội được triển khai và thực hiện có hiệu quả. Qua đó từng bước nâng cao chất lượng và hoạt động có hiệu quả của lực lượng công an viên ở thôn, kết hợp với việc phát động phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh giữ gìn trật tự xã hội ở cơ sở. Trong nhiệm kỳ tổng số các vụ vi phạm về trật tự an toàn xã hội giảm đáng kể, số vụ việc xảy ra: năm 2000 là 131 vụ, năm 2004 và 06 tháng đầu năm 2005 là 114 vụ với 201 đối tượng, giảm 17 vụ và 09 đối tượng, không có trọng án xảy ra, các vụ việc xảy ra đều được xử lý kịp thời.

Công tác xây dựng Đảng luôn được quan tâm. Đảng ủy tổ chức học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Việc học tập gắn với việc xây dựng chương trình hành động của Đảng bộ, các chi bộ thôn xóm để thực hiện nghị quyết một cách có hiệu quả. Việc triển khai nghị quyết có tính trọng tâm, trọng điểm, số lượng đảng viên tham gia học tập đạt 96%. Các sinh hoạt trong Đảng, trong quần chúng nhân dân được cởi mở, dân chủ thẳng thắn hơn.

Công tác tổ chức và đảng viên, luôn được cấp ủy Đảng tập trung triển khai và có nhiều giải pháp đồng bộ để xây dựng, củng cố nâng cao nội dung, chất lượng sinh hoạt chi bộ Đảng. Việc phân công đảng viên gắn với kiểm tra thực hiện nghị quyết của Đảng, tăng cường củng cố các chi bộ yếu kém, việc đánh giá phân loại được thực hiện nghiêm túc và chặt chẽ, gắn việc kiểm tra của cấp ủy, đảng viên với thực hiện nghị quyết của Đảng, đã tạo được chuyển biến tốt về nhận thức, hành động trong lãnh đạo, thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng chi bộ Đảng và đảng viên. Vì thế, Đảng bộ xã 4 năm liền (2000-2003) được công nhận Đảng bộ trong sạch vững mạnh tiêu biểu của huyện Thanh Chương. Đồng chí Bí thư Đảng ủy; đồng chí Thường vụ Trực Đảng được Huyện ủy Thanh Chương khen tặng danh hiệu Tiêu biểu xuất sắc; đồng chí Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã được Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An khen tặng danh hiệu Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã xuất sắc.

Đảng bộ tăng cường công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, bố trí và sắp xếp cán bộ một cách phù hợp. Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy vai trò lãnh đạo của tập thể thường vụ, gắn với việc đề cao trách nhiệm của người đứng đầu, Bí thư, Phó Bí thư, đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện tuyệt đối của Đảng về công tác tổ chức cán bộ, có sự phối hợp đồng bộ giữa chính quyền, mặt trận, các đoàn thể cấp xã, các chi bộ thôn, xóm. Lãnh đạo tốt cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân 3 cấp, nhiệm kỳ 2004-2009. Trong nhiệm kỳ đã gửi đi đào tạo 21 cán bộ, tăng 05 người so với nhiệm kỳ trước. Cùng với việc gửi cán bộ đi đào tạo, hàng năm xã cử 25-30 cán bộ đi bồi dưỡng tại trường chính trị tỉnh, trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện về lí luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ đảng, đoàn thể, các bí thư chi bộ và bồi dưỡng 57 đảng viên mới kết nạp. Vì vậy chất lượng đội ngũ ngày càng được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị đề ra.

Đối với công tác kiểm tra, giám sát, Đảng ủy đã bám sát kế hoạch toàn khóa kịp thời cụ thể hóa thành kế hoạch hàng năm. Tiến hành kiểm tra việc thi hành Điều lệ Đảng, những điều đảng viên không được làm, chấp hành nghị quyết Đảng, pháp luật Nhà nước, các nghị quyết của cấp trên và nghị quyết của Đảng bộ đề ra, thực hiện việc xây dựng kế hoạch hoạt động của Ủy ban kiểm tra được Đảng ủy thông qua, những chi bộ có dấu hiệu vi phạm, Đảng ủy tập trung lãnh đạo, kiểm tra, kết luận, làm rõ, xử lý nghiêm túc cán bộ, đảng viên vi phạm. Trong nhiệm kỳ đã có 09 đảng viên bị kỷ luật.

Đảng ủy tăng cường lãnh đạo công tác vận động quần chúng, đổi mới cơ bản về phương thức, tổ chức vận động quần chúng, bám sát cơ sở, chú trọng việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh. Tăng cường chỉ đạo thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Mặt trận và các đoàn thể đã tham mưu tích cực vào việc vận động người dân đi bầu cử đại biểu Quốc hội (khóa XI), Hội đồng nhân dân 3 cấp nhiệm kỳ 2004-2009 đạt kết quả tốt.

 Quán triệt sâu sắc Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, các kết luận về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) các văn bản hướng dẫn của Ban Thường vụ Huyện ủy về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đảng ủy đã triển khai một cách nghiêm túc gắn với việc tự phê bình và phê bình trong Thường vụ, từng cấp ủy viên và từng đảng viên, kiểm điểm những mặt đã làm được, những tồn tại yếu kém về vai trò tập thể và từng cá nhân. Một số cấp ủy chưa nghiêm túc trong quá trình kiểm điểm, Ban Thường vụ Đảng ủy đã kịp thời chỉ đạo, gợi ý kiểm điểm cụ thể. Vì vậy, sau kiểm điểm chất lượng của tổ chức Đảng và đảng viên được nâng lên rõ nét, những đảng viên sa sút ý chí chiến đấu, trách nhiệm kém đều được kiểm điểm và có hướng sửa chữa kịp thời, gây được tác dụng giáo dục trong cán bộ đảng viên, năng lực, uy tín của Đảng được nâng lên.

Qua 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 2000-2005, nhìn chung kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh của xã nhà đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Về kinh tế, Đảng bộ đề ra được nhiều chủ trương để thúc đẩy phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng được xây dựng, bộ mặt nông thôn có nhiều đổi mới. Về xã hội đã tạo ra được bầu không khí chính trị ổn định, dân chủ, đoàn kết để Ban Chấp hành Đảng bộ tiếp tục lãnh đạo đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên quê hương. Những kết quả đó là kết tinh của sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ trong việc nắm bắt và đánh giá tình hình, để từ đó đề ra những biện pháp sát thực, phù hợp với tình hình địa phương. Tập trung xây dựng khối đoàn kết, phát động các phong trào thi đua sâu rộng tập trung xây dựng quê hương phát triển.

Quán triệt Chỉ thị số 46-CT/TW, ngày 06/12/2004 của Bộ Chính trị và các thông tri, hướng dẫn của các cấp về đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng. Được sự đồng ý của Huyện ủy Thanh Chương, ngày 06/10/2005, Đảng ủy tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ nhiệm kỳ 2005-2010, tại Hội trường UBND xã, tham dự đại hội có 122 đại biểu.

Đại hội đã nghe và thảo luận báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ nhiệm kỳ 2000-2005. Thông qua đó, Đại hội khẳng định những thành tích và kết quả 05 năm qua là công lao của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong toàn xã đã vượt qua nhiều khó khăn mới đạt được. Về phát triển kinh tế, diện tích gieo trồng tăng hàng năm; đàn gia súc, gia cầm phát triển cả số lượng và chất lượng. Thu ngân sách hàng năm tăng. Xây dựng cơ bản được chú ý. Văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến, cơ sở vật chất như trường học, trạm y tế, các công trình phúc lợi được đầu tư xây dựng. Các đối tượng, gia đình chính sách, gia đình có công với cách mạng được cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể chăm lo hơn, đời sống mọi mặt của người dân được nâng cao. Tình hình an ninh, quốc phòng trên địa bàn luôn luôn được giữ vững. Công tác xây dựng hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh, trong đó chú trọng nhất là công tác chăm lo xây dựng Đảng. 

Bên cạnh đó, Đại hội cũng chỉ ra những hạn chế như: Đời sống kinh tế của nhân dân đã tăng nhưng với tốc độ còn chậm, chưa có hướng kinh tế mũi nhọn. Các công trình xây dựng cơ bản phục vụ đời sống dân sinh như điện, trường, giao thông, thủy lợi và các công trình phúc lợi khác chưa được quan tâm đúng mức. Công tác xây dựng Đảng nhất là trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ đang còn nhiều hạn chế, một số cán bộ, đảng viên ý thức rèn luyện chưa tốt.

Đại hội đề ra phương hướng cho nhiệm kỳ tới đó là: Tiếp tục thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội là nền tảng tinh thần cho nhân dân. Tập trung khai thác mọi tiềm năng, phát huy nội lực, tranh thủ sự giúp đỡ của cấp trên, xây dựng xã vững mạnh toàn diện. Phát triển mạnh tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, xuất khẩu lao động, khuyến khích đào tạo nguồn nhân lực. Phát triển nền sản xuất nông nghiệp bền vững theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng kết cấu hạ tầng về thuỷ lợi, giao thông, điện, công trình văn hóa, công trình phúc lợi khác. Xây dựng đời sống nông thôn văn minh, dân chủ, lành mạnh. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định; thực hiện tốt cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 13 đồng chí, đồng chí Nguyễn Văn Tư được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Bá Lý được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Nguyễn Văn Lương được bầu làm Trực Đảng[39].

Sau Đại hội, Ban Chấp hành Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nghị quyết các cấp đề ra và giành được nhiều kết quả trên các lĩnh vực.

Lĩnh vực kinh tế: Đảng bộ đã phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, chọn bước đi phù hợp, bám sát mục tiêu mà nghị quyết đề ra. Trong nông nghiệp, đã thực hiện tốt chuyn đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ, đầu tư thâm canh, đưa các ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm 15,3%, cơ cấu kinh tế đến năm 2010 có bước chuyển biến. Trong đó, lĩnh vực nông - lâm - thủy sản chiếm 54,91%, dịch vụ thương mại chiếm 28,87%, các ngành nghề nông thôn khác chiếm 16,22%.

Nông nghiệp tiếp tục có bước phát triển toàn diện. Đảng ủy đã tập trung chỉ đạo người dân tăng cường chuyển đổi cây trồng, tiếp tục đưa các giống lúa mới chất lượng và năng suất cao vào sản xuất. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Từ năm 2008, xã tiếp tục tổ chức thực hiện chủ trương chuyển đổi ruộng đất của tỉnh để tạo điều kiện cho việc áp dụng cơ giới hóa vào trong sản xuất nông nghiệp. Từ đó, năng suất tăng hàng năm, năm 2005 40 tạ/ha đến năm 2010 tăng lên 55 tạ/ha. Chú trọng phát triển cây công nghiệp dài ngày như chè, keo lấy gỗ... đưa lại thu nhập cao cho người dân. Tổng sản lượng lương thực toàn xã đến năm 2010, cây có hạt là 2.000 tấn, cây có củ là 3.200 tấn. Tổng giá trị sản xuất là 68,9 tỷ đồng. Tổng thu nhập bình quân của người dân đạt 11,8 triệu đồng/năm.

Chăn nuôi có nhiều chuyển biến. Thực hiện đề án phát triển chăn nuôi của huyện, xã mở nhiều lớp tập huấn chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhờ đó từng bước nâng cao chất lượng đàn gia súc, gia cầm. Đến năm 2010 tổng đàn trâu bò đạt trên 2.822 con, đàn lợn khoảng 4.280 con, đàn dê 3.500 con, đàn gia cầm 53.650 con. Tỷ trọng giá trị chăn nuôi trong ngành nông nghiệp từ 33,6% năm 2005 tăng lên gần 40%. Tích cực chỉ đạo phát triển chăn nuôi theo hướng kinh tế trang trại, nhiều mô hình chăn nuôi lợn, nuôi gà có hiệu quả cao. Công tác tiêm phòng, kiểm soát dịch bệnh gia súc, gia cầm đạt kết quả khá.

Lâm nghiệp, trong nhiệm kỳ người dân trồng được 135ha rừng tập trung và hàng vạn cây phân tán. Xã tiếp nhận việc bàn giao đất rừng cho người dân, triển khai lập quy hoạch trình cấp trên có thẩm quyền phê duyệt giao cho hộ gia đình. Công tác quản lý và bảo vệ rừng được tăng cường, nạn cháy rừng giảm, một bộ phận người dân đã có thu nhập cao từ trồng rừng.

 Dịch vụ thương mại, tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn có nhiều chuyển biến. Tiểu thủ công nghiệp hàng năm tăng từ 16-17%. Chương trình phát triển tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn bước đầu đạt được những kết quả đáng kể. Một số ngành nghề như sản xuất vật liệu xây dựng, nề, mộc, cơ khí nhỏ được duy trì và phát triển có chất lượng, giá trị thu nhập ngành nghề kinh doanh dịch vụ chiếm 32,47%.

Đối với xây dựng cơ bản, nguồn vốn đầu tư tăng nhanh, năm 2005 gần 2,8 tỷ đồng, năm 2010 là 4,2 tỷ đồng. Từ năm 2006 đến năm 2010 huy động nguồn vốn từ các kênh để đầu tư xây dựng gần 04km kênh mương đưa tổng số kênh mương được kiên cố 7,5km. Cứng hóa giao thông nông thôn hơn 20km, xây dựng nhà văn hóa xã, trường học, phòng ở giáo viên làm thay đổi một bước kết cấu hạ tầng của xã. Khảo sát thiết kế tuyến đường kinh tế dân sinh từ xóm 1 xã Thanh Lĩnh đi đường Hồ Chí Minh qua xóm 3,7, 8, 9, 10, 12 và xóm 13 của xã dài 6,8 km.

Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao có nhiều chuyển biến. Đời sống văn hóa của người dân từng bước được nâng lên kể cả vật chất và tinh thần. Cấp ủy Đảng, chính quyền từ xã đến thôn đã thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa mới”, xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, gia đình thể thao theo tinh thần Nghị quyết đề ra. Đến năm 2010 có 61,3% gia đình đạt tiêu chuẩn “Gia đình văn hóa”, 29,6% gia đình đạt “Gia đình thể thao”. Các hoạt động văn hóa văn nghệ thể dục thể thao đều được quan tâm chăm lo. Hàng năm vào các dịp lễ tết đều được tổ chức các hoạt động, hội diễn văn nghệ và tổ chức thi đấu các môn thể thao thu hút đông đảo cán bộ Nhân dân tham gia. Công tác chính sách xã hội được xã thực hiện tốt. Trong nhiệm kỳ, thực hiện Chương trình 167 về chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở của Chính phủ theo Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ, xã đã làm được 40 ngôi nhà với tổng số tiền là 01 tỷ đồng.

Năm 2006, xã đón nhận đồng bào dân tộc ở Tương Dương chuyển về định cư để nhường đất cho xây dựng thủy điện Bản Vẽ. Do thay đổi địa bàn, tập quán sản xuất mới nên đồng bào gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, Đảng ủy, chính quyền, các đoàn thể trong hệ thống chính trị của xã đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tập huấn, hướng dẫn, cầm tay chỉ việc, trồng keo, trồng chè, cày cấy làm lúa nước… Vận động nhân dân không trồng cây thuốc phiện, không tiêm chích, mua bán các chất ma túy… Từ đó, đồng bào dần đi vào ổn định cuộc sống, hòa nhập tốt với nơi ở mới.

Đối với giáo dục đào tạo luôn được Đảng bộ, nhân dân quan tâm. Cơ sở vật chất phục vụ giáo dục được đầu tư. Tập thể cán bộ, giáo viên, học sinh đã thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không” với 04 nội dung của ngành giáo dục phát động, không ngừng phấn đấu vươn lên thi đua dạy tốt học tốt. Nhờ vậy mà trong 5 năm (2005-2010) ngành giáo dục xã nhà đạt được nhiều kết quả đáng mừng. Tỉ lệ học sinh giỏi hàng năm đạt từ 35-38%, tỷ lệ học sinh trung học cơ sở tốt nghiệp đạt trên 90%. Hàng năm có nhiều em học sinh tham gia thi học sinh giỏi huyện, tỉnh đạt giải. Số học sinh thi đậu vào các trường đại học, cao đẳng ngày càng cao, trong đó: năm 2005 có 12 em, năm 2008-2009 có 42 em. Công tác khuyến học đạt kết quả tốt, động viên khích lệ kịp thời các học sinh học giỏi.

Về y tế, để thực hiện tốt việc chăm sóc sức khỏe cho người dân, chính quyền địa phương đã ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho trạm y tế. Đội ngũ cán bộ y tế được đào tạo chuyên môn, biên chế đủ số lượng, chất lượng được nâng lên đáng kể. Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân được quan tâm. Hàng năm trạm y tế xã đã khám cho từ 650-700 lượt người. Bên cạnh đó, trạm y tế còn thường xuyên tuyên truyền về các chương trình y tế dự phòng.

Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình và trẻ em thực hiện có hiệu quả. Nhận thức của cán bộ và người dân được tăng lên. Các chỉ tiêu về dân số và gia đình trẻ em đạt và vượt kế hoạch đề ra hàng năm. Chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, thực hiện chính sách xã hội được quan tâm lãnh đạo có chuyển biến tích cực.

Quốc phòng, an ninh trên địa bàn được đảm bảo. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Hàng năm, Ban Chấp hành Đảng bộ đều ra nghị quyết lãnh đạo công tác an ninh, quốc phòng. Công tác khám tuyển, giao quân đều đạt 100% chỉ tiêu. Trong 05 năm (2005-2010), đã 20 thanh niên lên đường nhập ngũ bảo vệ Tổ quốc. Ban Chỉ huy quân sự xã quản lý tốt quân dự bị động viên, huấn luyện quân sự, học tập chính trị cho các đối tượng. Xã xây dựng 01 trung đội cơ động với 22 đồng chí, đảm bảo chất lượng và luôn sẵn sàng chiến đấu, tham gia phòng chống bão lụt, tuần tra bảo vệ giữ gìn an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội.

Về an ninh, tình hình chính trị trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thường xuyên ổn định và giữ vững. Ban Thường vụ Đảng ủy đã tập trung quán triệt Nghị quyết số 04 của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện về “Đảm bảo an ninh nông thôn trong tình hình hiện nay” cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân cam kết thực hiện. Mặc dù giai đoạn này có một số tệ nạn được du nhập vào địa bàn như ma túy, mại dâm… tuy nhiên được sự quan tâm của huyện và cấp ủy đảng ở địa phương nên việc phát hiện, đấu tranh được làm nghiêm. Chính nhờ vậy mà không có vụ việc phức tạp xảy ra trên địa bàn, những vụ việc xảy ra đều được cấp ủy, chính quyền chỉ đạo giải quyết dứt điểm, không kéo dài. Ban Công an giải quyết xử lý đúng người, đúng việc đảm bảo đúng pháp luật, đa số vụ việc được hòa giải thông qua tổ an ninh, tổ hòa giải.

Công tác xây dựng Đảng luôn được chú trọng. Công tác chính trị, tư tưởng được Đảng bộ tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, đã tạo ra những chuyển biến quan trọng. Trong nhiệm kỳ, Đảng uỷ đã tổ chức học tập, nghiên cứu các nghị quyết, chỉ thị của Đảng một cách nghiêm túc và chất lượng. Cụ thể hoá các nghị quyết, chỉ thị của Đảng vào cuộc sống nhân dân bằng chương trình hành động, đề án thực hiện và tăng cường sự kiểm tra của Đảng. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” là một cuộc vận động lớn trong toàn Đảng, toàn dân. Ban Thường vụ Đảng uỷ xã đã tổ chức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân học tập các chuyên đề tư tưởng Hồ Chí Minh. Các cuộc vận động này đã từng bước nâng cao trình độ nhận thức, năng lực công tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng cho toàn Đảng, toàn dân xã nhà, góp phần hoàn thành tốt các mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng đề ra.

Công tác phát triển đảng viên được quan tâm, các chi ủy, chi bộ hàng năm có kế hoạch bồi dưỡng giúp đỡ quần chúng ưu tú tạo nguồn để kết nạp vào Đảng theo chỉ tiêu đề ra. Trong 05 năm đã kết nạp được 67 đảng viên. Đến năm 2010 toàn Đảng bộ có 262 đồng chí đảng viên. Thời gian này (2006-2009), Đảng bộ xã còn tiếp nhận các đảng viên là người dân tộc Thái xuống sinh hoạt.

Thường xuyên làm tốt công tác phát thẻ đảng viên và xét tặng huy hiệu cho đảng viên có đủ tiêu chuẩn. Trong 5 năm đã có trên 30 lượt đồng chí được tặng Huy hiệu Đảng. Việc phân tích chất lượng tổ chức Đảng và đảng viên hàng năm đều gắn với kết quả lãnh đạo nhiệm vụ được phân công nên đã hạn chế được tính hình thức trong phân loại đảng viên. Thực hiện nghiêm túc Quy định số 76 của Trung ương giới thiệu đảng viên về sinh hoạt nơi cư trú đảm bảo yêu cầu đề ra, góp phần củng cố nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên.

Đảng ủy thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự gương mẫu có phẩm chất đạo đức cánh mạng, có ý thức kỷ luật, trách nhiệm cao trước mọi phong trào được giao. Trong nhiệm kỳ, Đảng ủy đã tạo điều kiện cho nhiều đồng chí đi học đào tạo lại trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Nhìn chung đội ngũ cán bộ, công chức được đào tạo đã phát huy được công việc và hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Trong nhiệm kỳ, Đảng ủy và y ban Kiểm tra đã tiến hành tổ chức kiểm tra, giám sát 12 chi bộ với các nội dung, đối tượng khác nhau trên nhiều lĩnh vực như xây dựng Đảng, phát triển kinh tế - xã hội và kiểm tra đảng viên có dấu hiệu vi phạm. Trong quá trình kiểm tra đã có kết luận từng nội dung cụ thể. Trong nhiệm kỳ đã kỷ luật 04 đảng viên có dấu hiệu vi phạm. Các chi bộ, đảng viên sau khi kiểm tra có chuyển biến tích cực và sửa chữa khuyết điểm có ý chí vươn lên.

Công tác dân vận đã được Đảng ủy chú trọng. Đảng ủy đã kiện toàn tổ công tác và tham gia sinh hoạt ở các thôn. Qua kiện toàn tổ đã thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, tích cực tuyên truyền vận động Nhân dân trong thôn tham gia thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và thực hiện bộ tiêu chí về xây dựng nông thôn mới.

Sau 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2001-2010), Đảng bộ và Nhân dân xã Thanh Hương đã phát huy truyền thống của quê hương cách mạng, đoàn kết, nỗ lực vượt qua khó khăn thử thách phấn đấu vươn lên giành được những thành tựu quan trọng và tương đối toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, cũng như trong công tác xây dựng hệ thống chính trị. Mặc dù còn một số hạn chế nhất định nhưng những kết quả đó, là tiền đề quan trọng để Đảng bộ và Nhân dân xã nhà tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, chung sức, đồng lòng thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trong những năm tiếp theo.

IV. ĐẢNG BỘ XÃ THANH HƯƠNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TIẾP TỤC THỰC HIỆN CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI, TÍCH CỰC THAM GIA PHONG TRÀO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI (2010 - 2024)

Quán triệt Chỉ thị số 37-CT/TW, ngày 04/8/2009 của Bộ Chính trị về Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, tháng 6/2010, Đảng ủy tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ nhiệm kỳ 2010-2015, tại Hội trường UBND xã, với sự tham dự của 112 đại biểu.

Đại hội đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 2005-2010, mặc dầu còn gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng Đảng bộ và Nhân dân xã nhà đã đoàn kết nỗ lực phấn đấu huy động mọi nguồn lực xã hội, tranh thủ sự hỗ trợ của Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành để tổ chức thực hiện hoàn thành cơ bản các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Về kinh tế, tổng sản lượng lương thực tăng so với đầu kỳ là 5%, các ngành nghề dịch vụ đi vào hoạt động có hiệu quả, tổng đàn gia súc, gia cầm phát triển đáp ừng nhu cầu sức kéo và phục vụ nhu cầu cuộc sống, giá trị thu nhập từ lâm nghiệp tăng. Thu nhập bình quân đầu người đạt 16 triệu đồng/năm, tăng so với cùng kỳ; tỷ lệ hộ nghèo, đói giảm 12% so với cùng kỳ. Thu hút nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng lên hàng tỷ đồng; giáo dục được quan tâm, tỷ lệ huy động học sinh đến trường tăng 4% so với cùng kỳ, tốt nghiệp tiểu học, trung học cơ sở đạt 97,5%, chất lượng dạy và học được nâng lên; công tác y tế, kế hoạch hóa gia đình đạt nhiều kết quả, tỷ lệ sinh con thứ 03 trở lên giảm xuống còn 1,65%; công tác chính sách xã hội được quan tâm đúng mức. An ninh, quốc phòng được giữ vững và tăng cường; hoạt động của chính quyền, mặt trận đoàn thể được đổi mới cả về hình thức và phương pháp, từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước và tập hợp lực lượng xây dựng khối đoàn kết trong nhân dân; công tác xây dựng Đảng đã có nhiều chuyển biến tích cực, đội ngũ cán bộ được sắp xếp theo chuyên môn, nghiệp vụ. Công tác đào tạo được quan tâm, các đồng chí cán bộ xã đa số có trình độ chuyên môn và lý luận chính trị từ trung cấp trở lên, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đng ủy đã chăm lo giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công vụ của đội ngũ cán bộ, tập trung xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị vững mạnh.

Tuy nhiên, Đại hội cũng đã chỉ ra một số hạn chế: kinh tế có phát triển nhưng đời sống của một bộ phận nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo còn cao, các hoạt động văn hóa - xã hội chưa được thường xuyên; thiếu các giải pháp tích cực để thực hiện các chương trình trọng điểm. An ninh, quốc phòng vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập; hoạt động cấp ủy, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể có lúc chưa sâu sát với cơ sở, một bộ phận cán bộ chưa phát huy được vai trò tiên phong, gương mẫu trong việc làm.

Đại hội đề ra phương hướng cho nhiệm kỳ tới đó là: Tiếp tục phát huy sức mạnh đoàn kết thống nhất, phát huy dân chủ trong Đảng và các tầng lớp nhân dân, phát huy những thành quả đã đạt được, đẩy mạnh công cuộc đổi mới do Đảng và Nhà nước khởi xướng, nhất là trong tư duy, cách nghĩ, cách làm. Kiên quyết chống lại các biểu hiện tiêu cực, bảo thủ trì trệ trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Quán triệt tư tưởng “phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hóa là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển”. Tiếp tục phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Quan tâm đồng bộ đến công tác phát triển kinh tế, nâng cao đời sống cho nhân dân và giải quyết kịp thời các chính sách xã hội. Xây dựng nền văn hóa ngày càng tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, quốc phòng an ninh ổn định. Đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 13 đồng chí, đồng chí Nguyễn Bá Lý được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Tư được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Phan Bá Hoàng được bầu làm Trực Đảng. Tháng 01/2013, đồng chí Phan Bá Hoàng được bầu làm Bí thư Đảng ủy. Tháng 6/2013, đồng chí Nguyễn Thị Hương được bầu làm Trực Đảng.

Sau Đại hội, Đảng bộ, Đảng ủy tập trung củng cố, kiện toàn bộ máy chính quyền, phân công nhiệm vụ cho từng đồng chí đảng ủy viên về cơ sở triển khai thực hiện nghị quyết của đại hội đề ra.

Lĩnh vực kinh tế: Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch mạnh mẽ, tính đến năm 2015 lĩnh vực nông, lâm, thủy sản chiếm 50%; tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn chiếm 25%; dịch vụ tổng hợp chiếm 25%.

Đối với sản xuất nông nghiệp, xã tiếp tục chỉ đạo nhân dân ổn định diện tích cây trồng hàng năm, hình thành các vùng chuyên canh cây trồng, con nuôi. Sản lượng cây có hạt hàng năm đạt gần 2.200 tấn, cây có củ đạt 3.200 tấn. Đã chú trọng phát triển cây công nghiệp dài ngày như: cây chè, keo, sắn... Tổng giá trị sản xuất đạt 77,5 tỷ đồng, tăng 12,5% so với mục tiêu đại hội Đảng bộ đề ra. Trong giai đoạn này, xã cũng đã làm tốt Chỉ thị số 02 của Tỉnh ủy về thực hiện chuyển đổi ruộng đất. Đây là một cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất, nên lúc đầu gặp rất nhiều khó khăn, tuy nhiên Đảng ủy, chính quyền địa phương và các đoàn thể đã kiên trì tuyên truyền, vận động người dân để thực hiện tốt chỉ thị này. Từ đó, việc áp dụng cơ giới hóa vào nông nghiệp được thuận lợi hơn, năng suất, sản lượng vì thế cũng đã nâng lên đáng kể.

Chăn nuôi được duy trì và phát triển. Xã đã liên hệ mở nhiều lớp tập huấn chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhờ đó từng bước nâng cao chất lượng đàn gia súc, gia cầm. Tổng đàn trâu bò bình quân hàng năm đạt trên 2.011 con, đàn lợn 3.250 con. Tỷ trọng chăn nuôi trong ngành nông nghiệp đạt 34,9%. Chính quyền địa phương tích cực chỉ đạo phát triển chăn nuôi theo theo hướng kinh tế trang trại. Nhiều mô hình chăn nuôi lợn, gia cầm có hiệu quả cao được hình thành. Công tác tiêm phòng, kiểm soát dịch bệnh gia súc, gia cầm đạt kết quả tốt, địa phương không diễn ra các ổ dịch lớn.

Lâm nghiệp đạt kết quả tích cực. Tính đến năm 2015, toàn xã trồng được trên 105ha rừng tập trung và hàng vạn cây phân tán. Công tác quản lý và bảo vệ rừng được tăng cường, nạn cháy rừng giảm rõ rệt.

Công nghiệp, dịch vụ thương mại, tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn duy trì tốc độ tăng trưởng khá. Một số ngành nghề như sản xuất vật liệu xây dựng, nề, mộc, cơ khí nhỏ... được duy trì và phát triển có chất lượng, giá trị thu nhập ngành nghề kinh doanh, dịch vụ chiếm 2,1%.

Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới đạt kết quả bước đầu. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, bộ mặt nông thôn có nhiều khởi sắc. Ý thức, nhận thức về xây dựng nông thôn mới của cán bộ và nhân dân càng được nâng cao, từ đó việc vận động người dân hiến đất làm đường giao thông diễn ra sôi nổi.

Xây dựng cơ bản, nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản tăng nhanh, vốn đầu tư phát triển toàn xã trong 05 năm đạt 18,6 tỷ đồng. Huy động các nguồn vốn của Nhà nước và nhân dân đóng góp đầu tư xây dựng gần 03 km kênh mương đưa tổng số kênh mương kiên cố lên đến 15 km. Cứng hóa giao thông nông thôn hơn 06 km, có 17 km được cứng hóa, mạng lưới các trường học, phòng ở giáo viên (duy tu phòng học trường tiểu học với số tiền 72,5 triệu đồng). Tổ chức quy hoạch và thi công các cầu dân sinh trên địa bàn xã, trong đó có 02 cây cầu treo. Từ đó, hàng chục hộ dân xóm 1 và xóm 13 cũ đã thuận tiện hơn trong đi lại, các em học sinh đến trường đỡ vất vả hơn. Công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch được quan tâm chỉ đạo, đã thực hiện tốt công tác lập đồ án quy hoạch xây dựng nông thôn mới của xã.

Công tác quản lý tài nguyên, có nhiều chuyển biến. Khai thác tài nguyên, khoáng sản có hiệu quả và đúng quy hoạch, việc quản lý, sử dụng, giao đất, đấu giá quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền của người sử dụng đất từng bước đi vào nề nếp, đảm bảo các quy định pháp luật. Công tác bảo vệ môi trường, thu gom và xử lý rác thải đả được triển khai, thực hiện.

Các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục, thể thao được cấp ủy, chính quyền chăm lo. Xã lãnh đạo thực hiện có hiệu quả phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 06 và Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, xây dựng gia đình văn hóa, gia đình thể thao, làng văn hóa. Đến năm 2015 có 75% gia đình đạt danh hiệu “Gia đình văn hóa”. Đài truyền thanh xã được duy trì và từng bước hoạt động có hiệu quả. Các phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao phát triển sôi nổi, thu hút sự tham gia tích cực của đông đảo quần chúng, nhất là trong các dịp lể tết của quê hương, dân tộc. Hàng năm vào dịp lễ tết, các ngày kỷ niệm trọng đại của đất nước đều tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao và tham gia hội thi tại huyện, tỉnh. Xã làm tốt công tác hỗ trợ nhà ở theo Chương trình 163 của Chính phủ, xây dựng 01 nhà tình nghĩa.

Giáo dục và đào tạo, tiếp tục được sự quan tâm của chính quyền về đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị dạy và học. Chất lượng giáo dục có nhiều tiến bộ, tỷ lệ học sinh bỏ học giảm, số học sinh đỗ vào các trường đại học, cao đẳng ngày một cao hơn, năm 2010 có 18 em, năm 2014 có 25 em. Công tác khuyến học đạt kết quả tốt. Trường Trung học cơ sở đạt chuẩn Quốc gia giai đoạn 1.

Về y tế, dân số - kế hoạch hóa gia đình: Ngoài việc chăm lo đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho việc khám chữa bệnh cho nhân dân, Đảng bộ đã quan tâm đến công tác cán bộ y tế. Trạm y tế đã có bác sĩ, y sĩ và cán bộ chuyên môn khác về hoạt động. Nhờ vậy công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân cũng như việc thực hiện các chương trình quốc gia về y tế đạt kết quả cao. Trong 05 năm đã khám và điều trị cho 3.853 bệnh nhân. Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình được quan tâm chỉ đạo, tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên giảm còn 1%, tỷ lệ trẻ em dưới 05 tuổi suy dinh dưỡng 17,8%. Trạm y tế đạt chuẩn Quốc gia về y tế.

Quốc phòng, an ninh trên địa bàn được đảm bảo. Xã tiếp tục quán triệt và thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước về xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, cụm an toàn làm chủ. Không ngừng phát triển và củng cố lực lượng dân quân, quân dự bị động viên. Làm tốt công tác đăng ký các phương tiện kỹ thuật, nguồn sẵn sàng nhập ngũ, khám tuyển nghĩa vụ quân sự hàng năm đều đúng và vượt chỉ tiêu trên giao.

Đảng bộ đã tiếp tục phát huy truyền thống của mình, lãnh đạo nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Lực lượng Công an đã tăng cường tuần tra, nắm bắt tình hình, xử lý, ngăn chặn phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội. Xây dựng lực lượng công an xã đủ biên chế để làm nòng cốt trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Nhờ vậy nhiệm kỳ qua tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững. Trong nhiệm kỳ x lý 76 vụ với 96 đối tượng, nhờ đó trật tự an toàn xã hội được giữ vững, góp phần ổn định tình hình.

Công tác xây dựng Đảng: Công tác chính trị tư tưởng, từng bước được đổi mới cả nội dung lẫn hình thức, tạo được sự thống nhất cao trong toàn Đảng bộ. Thông qua các đợt sinh hoạt chính trị, học tập quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng, đã góp phần nâng cao nhận thức, chuyển biến về hành động trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Công tác tổ chức triển khai học tập, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, xây dựng chương trình hành động đạt kết quả khá tốt. Công tác giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên được quan tâm. Đồng thời triển khai thực hiện có hiệu quả Chỉ thị 06, Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng và Quy định của Bộ Chính trị về những điều đảng viên không được làm. Qua đó hầu hết cán bộ, đảng viên đều nâng cao ý thức rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh, tích cực học tập, nâng cao năng lực công tác và chấp hành nghiêm túc các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Công tác tổ chức và đảng viên đã được Đảng uỷ chú trọng, nhất là công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng. Trong nhiệm kỳ Đảng ủy cử 12 đồng chí đi học các lớp đại học chuyên ngành, cử 01 đồng chí tham gia lớp bồi dưỡng Bí thư, Phó Bí thư cơ sở do Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị huyện tổ chức.

Để đạt được mục tiêu xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh, hàng năm Đảng uỷ đã lãnh đạo phải tập trung phấn đấu hoàn thành toàn diện các mặt công tác, chú trọng đến sự đoàn kết thống nhất, thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc của cấp uỷ, tập trung nâng cao chất lượng sinh hoạt của chi bộ, Đảng bộ. Nhờ vậy, chất lượng các chi bộ được nâng lên. Trong nhiệm kỳ đã kết nạp được 68 đồng chí đảng viên mới.

Thực hiện Quy định số 101-QĐ/TW của Ban Bí thư “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”, cấp ủy, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, người đứng đầu các cấp và mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức được trách nhiệm nêu gương, tự giác đi đầu trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, xem đây là một trong những giải pháp cơ bản nhằm lôi cuốn, tạo sức lan tỏa trong cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Mỗi cán bộ, đảng viên tự giác xây dựng kế hoạch tu dưỡng, rèn luyện qua những việc làm cụ thể, thiết thực; nhất là nêu gương theo phong cách gần dân, sát dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân theo lời dạy của Bác; nêu gương trong thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí. Việc đăng ký thực hiện nêu gương của cán bộ, đảng viên được đưa vào kiểm điểm, đánh giá trong sinh hoạt định kỳ của chi bộ, của cơ quan. Nhờ vậy, ý thức tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên được nâng lên.

Thực hiện kế hoạch kiểm tra, giám sát, Đảng uỷ đã tiến hành kiểm tra các chi bộ, chỉ đạo Ủy ban kiểm tra tiến hành kiểm tra, giám sát theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Nội dung kiểm tra tập trung vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác quản lý đảng viên, quản lý tài chính Đảng. Trong nhiệm kỳ Ban Thường vụ Đảng ủy và Ủy ban kiểm tra Đảng ủy kiểm tra 07 chi bộ và 38 lượt đảng viên, kết luận và x lý 07 trường hợp sai phạm. Qua kiểm tra, giám sát đã kịp thời nhắc nhở uốn nắn những thiếu sót hạn chế trong công tác thực hiện nhiệm vụ và quản lý đảng viên, thu chi đảng phí. Công tác giải quyết đơn thư được chú trọng, công tác kỷ luật trong Đảng được thực hiện nghiêm túc. Cán bộ làm công tác kiểm tra đã có nhiều đổi mới trong công tác kiểm tra, giám sát, đã tham mưu tích cực cho Đảng ủy các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và công tác quản lý cán bộ, đảng viên. Đã tham gia tập huấn nghiệp vụ công tác kiểm tra do cấp trên tổ chức.

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và thực hiện Chỉ thị số 06, Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Ngay sau khi tiếp thu nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị, Đảng ủy đã xây dựng kế hoạch, tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện một cách nghiêm túc. Tổ chức kiểm điểm đúng theo quy trình, gắn việc thực hiện nghị quyết kiểm điểm tự phê bình và phê bình trong cán bộ, đảng viên hàng năm để tìm ra những hạn chế, khuyết điểm và đề ra hướng khắc phục sữa chữa sau kiểm điểm. Kết quả khắc phục những hạn chế, khuyết điểm sau kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 đã tạo sự chuyển biến rõ nét. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu từ Đảng ủy cho đến các chi bộ trực thuộc được nâng lên; tinh thần, thái độ, trách nhiệm đối với công việc được giao của từng cán bộ, đảng viên được thể hiện rõ nét hơn; một số hạn chế, tồn tại đối với cấp ủy, chi bộ được tập trung giải quyết, các nhân tố tích cực được phát huy, các hành vi tiêu cực được cảnh báo, răn đe và phòng ngừa, những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật được xử lý nghiêm túc, góp phần ngăn chặn những biểu hiện của suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng được tăng cường.

Ban Thường vụ Đảng ủy đã trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo việc học tập quán triệt, thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị và các chuyên đề từng năm, tiếp tục đưa nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác đi vào nề nếp trong sinh hoạt chi bộ, cơ quan, các đoàn thể chính trị - xã hội và tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân.

Thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW về công tác dân vận trong tình hình mới đã được Đảng ủy chú trong quan tâm, thực hiện sự chỉ đạo của Huyện uỷ về triển khai kế hoạch thi đua “Dân vận khéo” giai đoạn 2012-2015, xã đã triển khai đến các ngành, các cá nhân. Đã kiện toàn Tổ công tác và tham gia sinh hoạt 03 chi bộ ở các thôn, qua kiện toàn tổ đã thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, tích cực tuyên truyền vận động nhân dân trong thôn tham gia thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và thực hiện bộ tiêu chí về xây dựng nông thôn mới. Công tác dân vận của chính quyền đã có nhiều chuyển biến tích cực. Vì vậy, các phong trào thi đua, các cuộc vận động được triển khai trên địa bàn rất thuận lợi, được nhân dân đồng tình thực hiện có hiệu quả.

Qua 05 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội nhiệm kỳ 2010-2015 của Đảng bộ xã Thanh Hương trong tình hình đất nước nói chung và địa phương nói riêng còn nhiều khó khăn, thách thức. Song Ban Chấp hành Đảng bộ đã bám sát nghị quyết, tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy, sự hỗ trợ của các ban ngành cấp huyện đã tập trung lãnh đạo, tổ chức thực hiện đạt và vượt hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu mà nghị quyết đã đề ra: kinh tế từng bước chuyển dịch đúng hướng. Đời sống, văn hóa - xã hội có bước phát triển rõ nét. Tình hình an ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội cơ bản ổn định. Vai trò điều hành quản lý Nhà nước từng bước được hoàn thiện. Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội ngày càng được phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân. Đảng bộ quan tâm tập trung lãnh đạo kiện toàn, củng cố tổ chức, cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, không ngừng xây dựng củng cố chính trị trong sạch vững mạnh, chỉ đạo tổ chức thực hiện tốt công tác vận động quần chúng.

Trước yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân xã nhà tiếp tục phát huy trí tuệ, năng lực và tinh thần trách nhiệm để lãnh đạo xây dựng quê hương ngày càng phát triển. Trong bối cảnh đó, thực hiện Chỉ thị số 36-CT/TW, ngày 30/5/2014 của Bộ Chính trị về đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Thực hiện kế hoạch đại hội cấp cơ sở của Huyện ủy Thanh Chương, tháng 5/2015, Đảng ủy tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, tại Hội trường UBND xã với sự tham dự của 115 đại biểu.

Đại hội đánh giá sau 5 năm (2010-2015) thực hiện nghị quyết đại hội Đảng các cấp và nghị quyết đại hội Đảng bộ mặc dù còn gặp không ít khó khăn, thách thức nhưng được sự quan tâm chỉ đạo của của Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các ban, ngành, đoàn thể cấp huyện, cán bộ, đảng viên và quân dân trong đã đoàn kết, chủ động, sáng tạo vượt qua khó khăn thách thức, nỗ lực phấn đấu giành được những kết quả to lớn và tương đối toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Tuy vậy, vẫn phải đối mặt với không ít những khó khăn nhất định. Về kinh tế, phát triển kinh tế tuy đạt mức tăng trưởng khá nhưng vẫn thiếu tính bền vững, chưa tổ chức khai thác tốt lợi thế về dịch vụ; công tác quy hoạch, quản lý đất đai còn nhiều hạn chế, một số chương trình dự án lớn chậm được triển khai do khó khăn về nguồn vốn và thu hút đầu tư làm ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế; phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa chưa thật sự bền vững. Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng còn chậm đổi mới, hiệu quả chưa cao. Một số cán bộ, đảng viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao thiếu gương mẫu, ý thức, trách nhiệm còn hạn chế...

Đại hội đã đề ra phương hướng chung cho nhiệm kỳ tới đó là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, phát huy dân chủ, xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh. Đổi mới toàn diện, khai thác mọi nguồn lực, phát huy có hiệu quả các chương trình kinh tế - xã hội trọng điểm cho phát triển kinh tế và thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Trọng tâm vào chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng nâng cao hiệu quả sản xuất, đẩy mạnh phát triển dịch vụ kết hợp với ngành nghề nông thôn để tập trung giảm nghèo và nâng cao mức sống của nhân dân. Tăng cường quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tạo bước đột phá về công tác cán bộ, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, quyết tâm xây dựng quê hương ngày càng phát triển.

Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 13 đồng chí, đồng chí Phan Bá Hoàng tiếp tục được bầu làm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Nguyễn Văn Tư tiếp tục được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Nguyễn Thị Hương tiếp tục được bầu làm Trực Đảng. Tháng 11/2019, đồng chí Nguyễn Văn Tiến được bầu làm Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã[40].

Thực hiện nghị quyết đại hội Đảng các cấp và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05 năm (2015-2020), trong điều kiện có nhiều khó khăn, thách thức nhưng với sự quyết tâm của cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể và nhân dân toàn xã, việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị đã đạt được nhiều kết quả tích cực.

Lĩnh vực kinh tế: Nông nghiệp phát triển theo hướng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, con nuôi, gắn với việc phát triển ngành, nghề dịch vụ. Việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất đã mang lại hiệu quả tích cực và cơ bản đã giữ được tăng trưởng ổn định. Diện tích trồng lúa thâm canh từ năm 2015 đến nay là 120ha, năng suất lúa bình quân/ha đất canh tác tăng từ 4,58 tấn năm 2015 lên 05 tấn năm 2019, đạt mục tiêu đại hội; kinh tế trang trại bắt đầu phát triển; nông dân đã áp dụng cơ giới hóa đồng bộ trong sản xuất nông nghiệp; tổng gia súc, gia cầm năm 2019 là 17.410 con, chất lượng đàn được tăng lên, tỷ lệ bò lai chiếm 35% tổng đàn bò. Chăn nuôi phát triển theo hướng chăn nuôi trang trại, gia trại, tổ hợp tác, giảm chăn nuôi hộ. Công tác phòng chống dịch được kịp thời nên đàn gia súc, gia cầm phát triển tốt đã mang lại hiệu quả kinh tế và phục vụ đời sống người dân.

Sản xuất lâm nghiệp đã được chú trọng và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Chính quyền địa phương đã chỉ đạo thực hiện tốt công tác chăm sóc, bảo vệ và phòng chống cháy rừng. Đến năm 2020, giá trị thu nhập bình quân của lâm nghiệp chiếm 30% tổng thu nhập từ nông nghiệp, đã góp phần nâng cao đời sống của nhân dân, phát triển kinh tế, xã hội, giảm nghèo của địa phương.

Tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn có bước phát triển mạnh mẽ. Ngành nghề tiểu thủ công nghiệp phát triển đa dạng như: sản xuất cơ khí, sản xuất mộc dân dụng, vận tải, máy làm đất, máy tuốt lúa, xay xát, các tổ thợ xây thu hút hàng chục lao động giải quyết tốt việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.

Dịch vụ, thương mại có nhiều chuyển biến. Dịch vụ được phát triển ngày càng đa dạng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của người dân như dịch vụ các khâu trong nông nghiệp, dịch vụ vật tư nông nghiệp, dịch vụ cơ khí, dịch vụ vận tải, kinh doanh tổng hợp, sửa chữa các phương tiện, dịch vụ ăn uống...

Công tác quản lý đất đai, tài nguyên ngày càng chặt chẽ. Xã thực hiện quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2016-2020 và kế hoạch sử dụng đất hàng năm kịp thời phục vụ phát triển sản xuất và xây dựng cơ sở hạ tầng và mục đích sử dụng khác có hiệu quả. Công tác giải quyết thủ tục hành chính về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có nhiều chuyển biến. Công tác giao đất, đấu giá quyền sử dụng đất bắt đầu thực hiện hiệu quả góp phần tăng thu ngân sách cho địa phương.

Xây dựng nông thôn mới và đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đạt được nhiều kết quả. Xác định nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng là rất quan trọng, nhằm tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, Đảng ủy, Ủy ban nhân dân xã đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội vào cuộc một cách quyết liệt nhằm thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu mà Nghị quyết đề ra. Các nguồn vốn đầu tư đã được huy động và lồng ghép để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, trong đó tập trung ưu tiên đầu tư cho các lĩnh vực quan trọng như trụ sở, nghĩa trang liệt sỹ, giao thông, thủy lợi, giáo dục - đào tạo, y tế, truyền thanh. Trong 05 năm đã huy động được 40,3 tỷ đồng, trong đó nhân dân đóng góp 2,5 tỷ đồng, chưa kể nguồn vốn xây dựng tuyến đường liên xã, bình quân mỗi năm huy động đạt trên 08 tỷ đồng để đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng.

Phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao tiếp tục được tổ chức thường xuyên, đặc biệt vào các dịp lễ, tết cổ truyền của dân tộc, đã thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Công tác thông tin luôn bám sát nhiệm vụ chính trị của địa ph­ương, tuyên truyền gương người tốt việc tốt, các điển hình tiên tiến trong sản xuất, kinh doanh. Phong trào xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa và phong trào chung sức xây dựng nông thôn mới tiếp tục phát triển rộng khắp trên địa bàn xã. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, được quần chúng ở các khu dân cư hưởng ứng tích cực. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật cho nhân dân. Tỷ lệ gia đình đạt văn hóa từ 47% năm 2015 lên 75% năm 2019; có 04/07 thôn đạt danh hiệu “Thôn văn hóa”. Để làm tốt công tác bảo tồn các giá trị di sản, xã đã tôn tạo lại phủ Hòa Quân và xây dựng hồ sơ xếp hạng di tích này. Đến năm 2017, di tích đã được tỉnh công nhận, xã tổ chức chương trình đón rước rất trọng thể. Đồng thời trong nhiệm kỳ, xã cũng đưa một phần của ngôi đình Hòa Quân xưa về dựng ở trung tâm xã để bảo quản.

Giáo dục - đào tạo, chất lượng dạy và học được nâng lên rõ rệt. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy và học được quan tâm đầu tư; đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đạt chuẩn và trên chuẩn ngày càng cao; công tác phổ cập giáo dục được quan tâm, trường Mầm non đạt phổ cập cho trẻ 05 tuổi, trường tiểu học đạt phổ cập mức độ 3, trường THCS đạt mức độ 3. Tỷ lệ học sinh THCS tiếp tục học lên THPT đạt 47%; công tác khuyến học, khuyến tài luôn được cấp uỷ, chính quyền quan tâm, phong trào xây dựng “Gia đình hiếu học”, “Dòng họ hiếu học” tiếp tục được duy trì và mở rộng.

Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh cho nhân dân được quan tâm. Trạm y tế đã chú trọng nâng cao chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ, y đức, tinh thần thái độ phục vụ của đội ngũ y tế. Công tác dự phòng được chú trọng; hoạt động tuyên truyền, gắn với công tác kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống dịch bệnh được tăng cường. Hàng năm trạm y tế làm tốt công tác tiêm chủng mở rộng. Mạng lưới cán bộ, cộng tác viên dân số trên địa bàn xã đã duy trì tốt các hoạt động truyền thông, tư vấn về dịch vụ dân số; tỷ lệ sinh bình quân hằng năm 1,62%, tỷ lệ tăng dân số hằng năm 1,34%.

Đối với công tác giải quyết việc làm, giảm nghèo và thực hiện chính sách xã hội. Thông qua các đoàn thể tín chấp để hội viên vay vốn, đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, với tổng vốn vay đến tháng 12 năm 2019 là 64,1 tỷ đồng. Hoàn thành cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ dưới 6 tuổi, người có công, người nghèo, thẻ bảo hiểm 135.

Quốc phòng, an ninh luôn được đảm bảo. Quốc phòng, đã chú trọng xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với an ninh nhân dân, tập trung xây dựng cơ sở vững mạnh, cụm an toàn làm chủ luôn được giữ vững; quan tâm bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho các đối tượng và toàn dân, nâng cao nhận thức, ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng lực lượng dân quân, dự bị động viên đầy đủ, đảm bảo số lượng biên chế, công tác tuyển quân, giao quân hàng năm đạt 100% chỉ tiêu trên giao. Hoàn thành chương trình học tập chính trị, huấn luyện quân sự cho lực lượng dân quân cơ động hàng năm; thực hiện tốt các chính sách hậu phương quân đội. Làm tốt nhiệm vụ phòng, chống thiên tai, phòng cháy chữa cháy, cứu hộ, cứu nạn.

Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn cơ bản được giữ vững, đảm bảo an ninh nông thôn, thực hiện có hiệu quả phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội. Công tác phối hợp với ngành công an cấp huyện được chú trọng, đã chủ động và thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự, phòng chống cháy nổ. Thường xuyên quan tâm củng cố lực lượng làm công tác an ninh trật tự tại cơ sở, làm nòng cốt để xây dựng thế trận an ninh dân nhân vững chắc. Trong 5 năm qua các vụ việc liên quan đến an ninh nông thôn, an toàn giao thông, công tác phòng chống cháy nổ trên địa bàn được đảm bảo.

Công tác xây dựng Đảng được chăm lo. Đối với công tác chính trị, tư tưởng, chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức; việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng chỉnh đốn Đảng. Công tác tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân được tăng cường. Việc nghiên cứu, quán triệt, học tập nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng đã có sự đổi mới, gắn với xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện; chú trọng sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm trong chỉ đạo thực tiễn. Tổ chức học tập, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên một cách kịp thời; chú trọng công tác tuyên truyền tập trung vào nhiệm vụ chính trị và các ngày lễ lớn của đất nước gắn với nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ, từ đó đã tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.

Thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Ban Thường vụ Đảng ủy đã xây dựng kế hoạch và tổ chức hội nghị toàn Đảng bộ để quán triệt, học tập chỉ thị, đồng thời giao trách nhiệm từng ngành, tổ chức đơn vị tiếp tục quán triệt đến tận đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân đã tạo sự lan tỏa, sâu rộng trong đời sống xã hội. Hàng năm, Ban Thường vụ Đảng ủy xây dựng các kế hoạch học tập, quán triệt và tổ chức thực hiện các chuyên đề kịp thời, thiết thực và đạt kết quả cao, từ đó tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong hệ thống chính trị và nhân dân.

Công tác tổ chức và đảng viên, ngay từ đầu nhiệm kỳ Ban Thường vụ đã ban hành Chương trình hành động về đổi mới công tác cán bộ và xây dựng hệ thống chính trị, chính vì vậy năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, hệ thống chính trị và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng lên. Đảng uỷ đã bám sát và luôn quan tâm đến việc củng cố, kiện toàn các tổ chức trong hệ thống chính trị, lãnh đạo, chỉ đạo thành công đại hội các chi bộ, các đoàn thể, chỉ đạo kiện toàn, bổ sung kịp thời các chi bộ có biến động về nhân sự. Thực hiện việc đổi mới trong công tác cán bộ nhằm nâng cao năng lực, trách nhiệm, hiệu quả công việc của đội ngũ cán bộ, công chức, cán bộ không chuyên trách ở xã. Kịp thời thực hiện công tác quy hoạch cán bộ nhiệm kỳ 2015-2020 và nhiệm kỳ 2020-2025. Thường xuyên quan tâm đào tạo cán bộ, từng bước nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ.

Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI, XII) của Đảng, Ban Cấp hành Đảng bộ đã tổ chức triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, kịp thời. Mỗi một cán bộ, đảng viên đều nhận thức sâu sắc về kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI, XII) là một nhiệm vụ thường xuyên quan trọng của tổ chức Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên. Thông qua việc kiểm điểm tập thể, cá nhân hàng năm đã tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động, ngăn chặn và đẩy lùi những biểu hiện về tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Từ đó công tác tự phê bình và phê bình trong Đảng được thể hiện rõ nét hơn, góp phần xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh và nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây dựng thêm niềm tin của Nhân dân vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Công tác phát triển đảng viên được chú trọng. Đến năm 2020, toàn Đảng bộ có 275 đảng viên, sinh hoạt tại 10 chi bộ (06 chi bộ nông thôn, 03 chi bộ trường học và 01 chi bộ y tế). Đảng ủy đã tập trung lãnh đạo để từng bước cải tiến nội dung sinh hoạt chi bộ, nhất là việc ra nghị quyết hàng quý, hàng tháng cụ thể để tổ chức lãnh đạo thực hiện và tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực hiện một cách chặt chẽ. Nhờ vậy, chất lượng của các chi bộ, được nâng lên khá rõ; công tác đánh giá, phân tích chất lượng cán bộ, đảng viên và tập thể hằng năm được thực hiện nghiêm túc. Công tác xét và đề nghị tặng Huy hiệu Đảng cho những đảng viên đủ tiêu chuẩn được thực hiện theo quy định. Việc chuyển đảng viên đi, tiếp nhận đảng viên đến thực hiện đúng quy định; đồng thời quản lý tốt các loại hồ sơ. 

Đối với công tác kiểm tra, giám sát: Đảng ủy, Uỷ ban kiểm tra Đảng uỷ đã chủ động kịp thời xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát toàn khóa, hàng năm có trọng tâm, trọng điểm trên các lĩnh vực. Tập trung kiểm tra, giám sát việc thi hành Điều lệ Đảng, thực hiện chỉ thị, nghị quyết của đảng. Đảng ủy, Uỷ ban kiểm tra Đảng uỷ đã chú trọng kiểm tra, giám sát các lĩnh vực có vấn đề phức tạp mà cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm. Sau kiểm tra, giám sát Đảng uỷ và Ủy ban kiểm tra đều có thông báo kết luận kết quả kiểm tra, giám sát bằng văn bản cụ thể đối với từng đơn vị, góp phần phòng ngừa, ngăn chặn sai phạm, tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng. Công tác kiểm tra, giám sát góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ trực thuộc Đảng bộ và uy tín của đảng viên trước nhân dân; về công tác xử lý kỷ luật đảng viên. Kịp thời kết luận và xem xét, kỷ luật đối với các trường hợp đảng viên vi phạm. Trong 05 năm đã tiến hành 12 cuộc kiểm tra, giám sát theo đúng kế hoạch; kỷ luật 05 đảng viên vi phạm với hình thức khiển trách.

Công tác dân vận luôn được Đảng bộ quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu quả phối hợp hoạt động của khối dân vận Đảng ủy theo hướng đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò của chính quyền, mặt trận, đoàn thể và quyền làm chủ của nhân dân. Công tác dân vận được tiếp tục tập trung chỉ đạo và thực hiện có hiệu quả, mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân ngày càng được tăng cường. Nội dung, phương thức công tác dân vận của hệ thống chính trị đã có nhiều đổi mới, phát huy được vai trò của chính quyền, mặt trận, đoàn thể và quyền làm chủ của nhân dân. Hàng năm triển khai kế hoạch đăng ký các mô hình, điển hìnhDân vận khéo”, sơ kết hai năm thực hiện giai đoạn 2016-2018, triển khai giai đoạn 2018-2020, đồng thời đánh giá và công nhận các mô hình thực hiện có hiệu quả đề nghị biểu dương, khen thưởng. Tổ chức hội nghị ký kết phối hợp hoạt động giữa khối Dân vận Đảng ủy với Ban Công an xã trong lĩnh vực bảo đảm an ninh trật tự; giữa khối Dân vận Đảng ủy với Ủy ban nhân dân xã và Trạm y tế xã; chú trọng xây dựng các mô hình như: mô hình dân vận khéo trong xây dựng nông thôn mới, vận động nhân dân thực hiện tốt phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Nhìn chung, nhiệm kỳ qua, Đảng bộ và Nhân dân xã nhà đã nỗ lực khắc phục khó khăn tập trung chuyên đổi cơ cấu cây trồng hợp lý, mạnh dạn đầu tư sản xuất, kinh doanh phát triển kinh tế nầng cao đời sống cho người dân. Các hoạt động văn hóa có nhiều chuyển biến tích cực, đẩy mạnh phong trào xây dựng làng văn hóa, xây dựng nông thôn mới. Tập trung xây dựng lực lượng quốc phòng, an ninh vững mạnh, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được quan tâm. Bài học quan trọng được rút ra đó là, cấp ủy, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể đoàn kết, có quyết tâm chính trị cao, không ngại khó, ngại khổ. Biết dựa vào dân, tạo sức mạnh đoàn kết, thực hiện tốt cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân hưởng thụ, lấy sức dân để xây dựng và phát triển quê hương.

Thực hiện kế hoạch Đại hội cấp cơ sở của Huyện ủy, tháng 5/2020, Đảng ủy tổ chức Đại hội đại biểu Đảng bộ nhiệm kỳ 2020-2025, tại Hội trường UBND xã, với sự tham gia của 115 đại biểu.

Đại hội đánh giá tình hình 05 năm qua đã đạt được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt nhiệm kỳ qua vẫn tồn tại khuyết điểm và hạn chế nhất định.

Đại hội đã đề ra nhiệm vụ cho nhiệm kỳ tới là: Đoàn kết, dân chủ, kỷ cương, đổi mới, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, xây dựng Thanh Hương phát triển bền vững, Đảng bộ sẽ tranh thủ tối đa cơ hội, phát huy có hiệu quả các nguồn lực và điều kiện thuận lợi, chủ động khắc phục khó khăn; tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế, xã hội; xác định chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi là nhiệm vụ trọng tâm; phát triển lâm nghiệp là nhiệm vụ quan trọng. Xác định xuất khẩu lao động và xây dựng kết cấu hạ tầng là khâu đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh là nhiệm vụ then chốt. Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy Đảng, hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của chính quyền; tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân; tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng, chính quyền và Mặt trận, các tổ chức đoàn thể vững mạnh; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân.

Đại hội bầu Ban Chấp hành có 11 đồng chí, đồng chí Phan Bá Hoàng tiếp tục được bầu làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Tiến tiếp tục được bầu làm Phó Bí thư phụ trách chính quyền, đồng chí Nguyễn Thị Hương tiếp tục được bầu làm Trực Đảng[41]. Đến tháng 6/2023, đồng chí Nguyễn Thái An, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy được Huyện ủy điều động, luân chuyển chỉ định tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ xã, Ban Thường vụ Đảng ủy, giữ chức Bí thư Đảng ủy xã.

Bước vào thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp trong điều kiện có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn thử thách nhất là tình hình dịch bệnh Covid-19 đang ngày càng diễn biến phức tạp nhưng với truyền thống cách mạng, đoàn kết, cùng nhau kề vai sát cánh, cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Thanh Hương đã vượt qua được những khó khăn phía trước để hoàn thành tốt các mục tiêu đã đề ra.

Lĩnh vực kinh tế: Ngay từ đầu nhiệm kỳ Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Đảng bộ đã tập trung ban hành các nghị quyết, theo Chương trình hành động thực hiện nghị quyết đại hội Đảng bộ xã để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo. Nhờ vậy đến nay có 07/10 chỉ tiêu kinh tế đạt tiến độ so với mục tiêu nghị quyết đại hội đề ra. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng và chuyển dịch đúng hướng. Tốc độ tăng trưởng năm 2020 đạt 9,2%; năm 2022 đạt 6,8%, năm 2023 đạt 7,5%; thu nhập bình quân đầu người năm 2020 là 39,1 triệu đồng/người/năm, năm 2022 đạt 43,28 triệu đồng/người/năm đạt 57,7%, năm 2023 đạt 45 triệu đồng/người/năm.

Về cơ cấu kinh tế: năm 2020, cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp: 44.3%; công nghiệp, xây dựng: 21,74%; thương mại, dịch vụ 33,63%; năm 2022, cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp: 44,3%; công nghiệp, xây dựng: 24,5%; thương mại, dịch vụ 31,2%; năm 2022 cơ cấu ngành nông, lâm nghiệp: 44,3%; công nghiệp - xây dựng: 21,7%; thương mại, dịch vụ 31,2%.

Đối với nông, lâm nghiệp, đến năm 2023 tổng sản lượng lương thực có hạt đạt trên 2.000 tấn. Giá trị thu nhập bình quân/ha canh tác nông nghiệp đạt 82 triệu đồng. Xã chỉ đạo xây dựng thành công mô hình trồng bí xanh, đem lại hiệu quả và lợi nhuận cao. Chăn nuôi tiếp tục phát triển khá cả về số lượng và chất lượng. Tổng đàn trâu, bò là 2.050 con. Tổng đàn lợn là 5.950 con. Tổng đàn gia cầm phát triển nhanh với 75.000 con. Nhân dân đã tập trung trồng rừng thâm canh, tạo sản phẩm hàng hoá, khoanh nuôi, bảo vệ, làm giàu vốn rừng.

Công tác xây dựng nông thôn mới đạt được nhiều kết quả. Xác định xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ đại hội, ngay từ đầu nhiệm kỳ Ban Chấp hành Đảng bộ xã đã ban hành nghị quyết để triển khai thực hiện kế hoạch “xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025”. Trong 02 năm triển khai, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, xã đã huy động được một nguồn lực rất lớn để tập trung hoàn thành tốt mục tiêu này. Tổng kinh phí đã huy động để thực hiện chương trình xây dựng Nông thôn mới là 112,559 tỷ đồng trong đó: ngân sách tỉnh và trung ương là 59,420 tỷ đồng, chiếm 52,8%; ngân sách cấp huyện là 13,466 tỷ đồng, chiếm 11,9 %; ngân sách cấp xã là 13,074 tỷ đồng, chiếm 11,6 %; vốn tín dụng là 26,529 tỷ đồng, chiếm 23,6 %; doanh nghiệp 70 triệu đồng, chiếm 0,06%; nhân dân ủng hộ đóng góp kinh phí xây dựng là 6,604 tỷ đồng; hiến đất và tài sản trên đất, làm giao thông là 32.000 m2, trị giá 6,7 tỷ đồng. Tổng đóng góp và hiến đất, tài sản trên đất của Nhân dân là 13,304 tỷ đồng. Đến năm 2022, 19/19 tiêu chí đã đạt, xã được Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An ban hành Quyết định công nhận xã về đích Nông thôn mới.

Đối với lĩnh vực xây dựng, dịch vụ, thương mại. Đảng bộ đã huy động các nguồn lực để xây dựng kết cấu hạ tầng như giao thông, thuỷ lợi, công trình công cộng… Thương mại, dịch vụ và ngành nghề phụ trên địa bàn tương đối ổn định. Mạng lưới dịch vụ phát triển đa dạng và ngày càng mở rộng. Giá trị sản xuất dịch vụ bình quân giai đoạn 2020-2022 đạt 32,4%.

Giáo dục - đào tạo tiếp tục được cấp ủy, chính quyền quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Thực hiện đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập trung học cơ sở đạt mức độ 3. Công tác huy động học sinh vào các cấp học, bậc học đạt tỷ lệ cao: tỷ lệ vào nhà trẻ 22,4 %; trẻ 05 tuổi vào học mẫu giáo lớn đạt 100%; số trẻ 06 tuổi vào lớp 1 đạt 100%; học sinh lớp 5 được công nhận hoàn thành chương trình tiểu học 100%; 100% số học sinh lớp 9 được công nhận tốt nghiệp; số học sinh lớp 9 được xét vào học lớp 10 tại trường THPT 98%. Chất lượng dạy và học trong các nhà trường tiếp tục được duy trì, kết quả thi học sinh giỏi, giáo viên dạy giỏi hàng năm đạt được kết quả cao. 02 năm liền các trường được xếp loại tập thể Lao động tiên tiến. Năm 2023 cả 03 trường đã được thẩm định trường đạt chuẩn Quốc gia, trong đó: trường Tiểu học phấn đấu công nhận trường chuẩn Quốc gia mức độ 2 cuối nhiệm kỳ.

Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân được chú trọng. Chất lượng khám, điều trị tại trạm được nâng lên rõ nét; cơ sở vật chất, thiết bị được đầu tư nâng cấp khang trang, đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân. Công tác phòng chống dịch được tăng cường, nhiều loại dịch bệnh được ngăn chặn kịp thời; vệ sinh an toàn thực phẩm được quan tâm; tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 91,25%. Giữ vững xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ bà mẹ và trẻ em được chăm lo, truyền thông dân số được triển khai sâu rộng, chất lượng dân số được nâng lên. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2020 là 6,4‰; năm 2021 là 8,1‰; năm 2022 là 5,3‰; năm 2023 là 5,2‰.

 Xã đã làm tốt công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Ban Chấp hành Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm Nghị quyết số 128/NQ-CP, ngày 11/10/2021 của Chính phủ, các văn bản của các ban, bộ, ngành Trung ương, của tỉnh và của huyện về phòng, chống dịch Covid-19 trong tình hình mới. Với tinh thần linh hoạt, chủ động; xem công tác phòng, chống dịch Covid-19 là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục và khôi phục sản xuất, kinh doanh phải gắn với đảm bảo an toàn phòng, chống dịch.  Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao ý thức, nhận thức của người dân trong việc tiêm vắc-xin và tổ chức tiêm phòng đúng đối tượng, an toàn. Tuy dịch bệnh xảy ra trên diện rộng nhưng dưới sự chỉ đạo của Đảng uỷ sự vào cuộc quyết liệt của Ủy ban nhân dân, Trung tâm chỉ huy phòng chống dịch, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nên tình hình dịch trên địa bàn xã được kiểm soát. Đời sống nhân dân vẫn ổn định, tình hình kinh tế - xã hội vẫn phát triển trong điều kiện bình thường mới.

Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” được duy trì và đẩy mạnh. Xây dựng gia đình văn hoá, làng, đơn vị văn hoá được chú trọng, chất lượng từng bước được nâng lên. Tỷ lệ gia đình văn hóa năm 2023 đạt 90,1%. Thiết chế văn hoá, thể thao được quan tâm đầu tư, giữ vững và nâng cao xã đạt chuẩn thiết chế văn hoá thông tin thể thao. Thực hiện tốt nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội; 06/06 xóm đạt xóm văn hóa, 04/04 đơn vị đạt đơn vị văn hóa, đạt tỷ lệ 100%. Phong trào thể dục, thể thao quần chúng phát triển mạnh và rộng khắp. Tỷ lệ hộ gia đình thể thao năm 2023 là 40,6%. Duy trì tốt các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao quần chúng. Tham gia các cuộc thi văn nghệ, thể dục, thể thao đầy đủ. Công tác quản lý, bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị các di tích được quan tâm.

Công tác chính sách an sinh xã hội, phong trào đền ơn đáp nghĩa, chính sách hậu phương quân đội được xã hội hóa sâu rộng, đạt hiệu quả thiết thực. Thực hiện bảo hiểm xã hội, chính sách đối với người lao động có nhiều tiến bộ, đảm bảo các quy định của Nhà nước và quyền lợi của người lao động.

Lĩnh vực quốc phòng - an ninh, xã thường xuyên quan tâm củng cố kiện toàn, bổ sung đầy đủ lực lượng dân quân, tổ chức ra quân huấn luyện đạt kết quả tốt; tích cực tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, thực hiện tốt việc khám tuyển, giao quân các năm 2021-2023 đạt 100% chỉ tiêu trên giao. Xã xây dựng lực lượng dự bị động viên, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội; xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, cụm an toàn làm chủ chất lượng ngày càng cao; kết hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa phát triển kinh tế - xã hội với xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân; tổ chức diễn tập chiến đấu phòng thủ được huyện xếp loại xuất sắc; tham gia các lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh đảm bảo theo kế hoạch.

Luôn quan tâm xây dựng lực lượng công an và công an viên, phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, “Nhân dân tham gia tố giác tội phạm” tiếp tục được phát huy, hiệu quả thiết thực. Lắp đặt 22 mắt camera an ninh tại Ủy ban nhân dân xã và trên các trục đường, hoạt động các tổ tự quản, gia đình tự quản có hiệu quả. Phối hợp với Mặt trận và các đoàn thể lắp đặt 07 hòm thư tố giác tội phạm tại 06 xóm và nơi giao dịch 1 cửa thuận tiện cho nhân dân tố giác tội phạm. An ninh nông thôn được đảm bảo; các vụ việc mâu thuẫn trong cộng đồng dân cư được tập trung xử lý ngay từ khi mới phát sinh.

Công tác xây dựng Đảng luôn được chú trọng. Đối với công tác chính trị, tư tưởng, Ban Thường vụ, Ban Chấp hành Đảng bộ xã, các chi uỷ, chi bộ quan tâm chăm lo công tác tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; giáo dục bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Tổ chức tốt các hoạt động tuyên truyền, kỷ niệm chào mừng các ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị của Đảng, quê hương, đất nước; định hướng dư luận, đấu tranh chống lại các thông tin trái chiều, luận điệu phản động, xuyên tạc trên mạng Interrnet; duy trì nghiêm túc chế độ thông tin thời sự hàng tháng nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Quan tâm đổi mới, nâng cao chất lượng học tập, quán triệt, tuyên truyền các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị, quyết định, kết luận của Trung ương, của Tỉnh, các nghị quyết, đề án của Huyện ủy và nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã.

 Trên cơ sở hướng dẫn của Trung ương, của tỉnh, của huyện, Ban Thường vụ Đảng ủy xây dựng và ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW; tổ chức hội nghị quán triệt Chỉ thị 05-CT/TW và chuyên đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” hàng năm kịp thời, nghiêm túc. Việc đưa nội dung chuyên đề được cấp ủy, chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các chi bộ đưa vào sinh hoạt hàng tháng, hàng năm tổ chức đăng ký bản cam kết trách nhiệm nêu gương, tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu cho cán bộ, đảng viên; thực hiện phong trào “3 cần, 3 đúng, 3 không, 3 chống, 3 quyết tâm”; cấp ủy Đảng, chính quyền luôn quan tâm tập trung lãnh đạo chỉ đạo thực hiện hiệu quả, được cán bộ, công chức, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đồng tình ủng hộ. Từ đó, việc tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước thuận lợi hơn; góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội của địa phương. Hiệu quả từ việc học tập và làm theo xuất hiện nhiều mô hình, điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực có sức lan tỏa cao, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình ủng hộ.

Thường xuyên làm tốt công tác nắm bắt dư luận, phản biện xã hội; công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư, công tác thanh tra nhân dân, công tác hòa giải để thông tin, giải đáp định hướng kịp thời. Kiện toàn kịp thời các ban của Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội để tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước và các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Việc sử dụng báo đảng được đặt mua đến tận các các chi bộ, đội ngũ cán bộ báo cáo viên, tuyên truyền viên được kiện toàn kịp thời đầy đủ. Hàng năm đều được sắp xếp bố trí tham gia học tập đầy đủ các nội dung do cấp trên tổ chức, việc tổ chức tuyên truyền đổi mới cả về nội dung, phương pháp qua nhiều hình thức.

Công tác tổ chức, cán bộ và đảng viên được Đảng ủy quan tâm. Xã thực hiện nghiêm việc phân công, bố trí cán bộ, công chức, viên chức theo đúng Đề án nhân sự đã được phê duyệt, có kế hoạch bố trí, sắp xếp, đào tạo, bồi dưỡng để chuẩn hóa đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tiếp tục được cấp ủy quan tâm, xã đã cử 11 đồng chí tham gia học lớp chuyên viên, 08 đồng chí tham gia học lớp trung cấp lý luận chính trị, 175 lượt đồng chí tham gia lớp bồi dưỡng các chuyên đề nghiệp vụ về chuyên môn. Nhìn chung cán bộ chuyên trách, công chức, bán chuyên trách đều có trình độ đại học và trung cấp chuyên môn, trung cấp chính trị. Công tác đánh giá, xếp loại, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ được thực hiện đúng quy trình, quy định: chỉ đạo bầu cử Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, các ban Hội đồng nhân dân; Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên Ủy ban nhân dân và bầu bổ sung Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã nhiệm kỳ 2021-2026 đạt tỷ lệ phiếu bầu cao, bầu đủ số lượng, đảm bảo đúng định hướng, cơ cấu.

Đảng bộ thực hiện tốt việc rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý nhiệm kỳ 2020-2025; xây dựng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý nhiệm kỳ 2025-2030 trình Ban Thường vụ Huyện ủy phê duyệt đúng quy định. Tập trung chỉ đạo hội nghị bầu xóm trưởng và đại hội chi bộ nhiệm kỳ 2022-2025 thành công và thực hiện chủ trương Phó Bí thư chi bộ đồng thời là xóm trưởng. Kết quả, 100% xóm trưởng là đảng viên. Thường xuyên chú trọng công tác quy hoạch, bổ sung quy hoạch cán bộ, xây dựng và thực hiện tốt công tác đào tạo, bỗi dưỡng cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ theo hướng trẻ hóa, chuẩn hóa đáp ứng yêu cầu công tác trong tình hình mới.

Công tác phát triển đảng viên tiếp tục được quan tâm. Nửa đầu nhiệm kỳ đã giới thiệu 15 quần chúng tham gia học lớp cảm tình đảng và đã kết nạp được 10 đảng viên mới. Đảng ủy thường xuyên quan tâm chỉ đạo các chi ủy chi bộ thực hiện tốt việc quản lý đảng viên, theo dõi biến động và thực hiện thủ tục chuyển sinh hoạt, miễn sinh hoạt đảng đảm bảo quy trình thủ tục. Nhìn chung đảng viên đều thực hiện tốt mỗi quan hệ nơi công tác cũng như nơi cư trú.

Công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng được chú trọng. Từ đầu nhiệm kỳ, cấp ủy đã chỉ đạo xây dựng và ban hành chương trình kiểm tra, giám sát kịp thời, nội dung có trọng tâm, trọng điểm, bám sát vào chương trình hành động thực hiện nghị quyết đại hội Đảng các cấp, nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã nhiệm kỳ 2020-2025; chỉ đạo Ủy ban kiểm tra Đảng ủy, các chi bộ tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, đúng tiến độ chương trình, kế hoạch công tác kiểm tra giám sát. Kết quả đã tiến hành kiểm tra việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, kết luận, quy định của Đảng các cấp; việc thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao 14 cuộc đối với 09 tổ chức đảng và 05 đảng viên. Về kết quả giám sát: giám sát việc thực hiện hiện các chỉ thị, nghị quyết, kết luận, quy định của Đảng các cấp; việc thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao 23 cuộc đối với 11 tổ chức và 12 đảng viên. Thi hành kỷ luật Đảng: đã xem xét, thi hành kỷ luật đối với 10 đảng viên, 09 đảng viên với hình thức khiển trách, 01 đảng viên với hình thức cảnh cáo. Qua kiểm tra, giám sát đã kịp thời phát hiện những hạn chế, khuyết điểm và đã chỉ đạo kiểm điểm làm rõ trách nhiệm của cá nhân, tập thể kịp thời khắc phục những tồn tại khuyết điểm, ngăn ngừa sai phạm có thể xẩy ra, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo củng cố khối đại đoàn kết trong hệ thống chính trị.

Công tác dân vận, Đảng bộ lãnh đạo, chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, khối dân vận nắm bắt tình hình, tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở; tham gia các phong trào thi đua yêu nước gắn với việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và phong trào thi đua “Dân vận khéo”, xây dựng các điểm sáng về công tác dân vận. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện Quyết định số 217, 218- QĐ/TW ngày 12/12/2013; Quyết định 99-QĐ/TW và Quy định 124-QĐ/TW của Bộ Chính trị về ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội và tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Đẩy mạnh phong trào thi đua “Dân vận khéo” gắn với phong trào xây dựng nông thôn mới. Công tác dân vận có nhiều đổi mới trong phương thức hoạt động, ngày càng chủ động, sát với từng cơ quan đơn vị, sát dân để thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ, phát huy vai trò, vị trí trong hệ thống chính trị; tăng cường quy chế dân chủ, tiếp xúc, đối thoại, giải quyết các kiến nghị của nhân dân; nâng cao trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền trong việc tiếp thu ý kiến góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hôi. 

 

KẾT LUẬN

 

Trải qua hàng trăm năm lịch sử, từ những làng quê ban đầu như Hòa Quân, Thanh Khiết, Đồng Hòa cho đến xã Thanh Hương ngày nay, với bản tính cần cù, chịu khó, năng động, sáng tạo, kiên cường, dũng cảm, giàu truyền thống yêu nước và cách mạng, người dân nơi đây đã vượt qua bao gian khổ hy sinh đấu tranh với thiên tai, địch họa để xây dựng cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.

Dưới chế độ thực dân phong kiến người dân Thanh Hương bị áp bức, bóc lột nặng nề. Với hơn 95% dân số là nông dân dù quanh năm “đầu tắt, mặt tối”, “một nắng hai sương” mà cuộc sống vẫn khổ cực, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, đời này qua đời khác sống trong cảnh lầm than, nô lệ, cực khổ đọa đầy.

Từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (03/02/1930) và lãnh đạo cách mạng nước ta, Nhân dân Thanh Hương với truyền thống yêu nước của mình, đã một lòng, một dạ đi theo Đảng. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, trải qua 25 năm (1930-1954) chống Pháp, Nhân dân xã Thanh Hương không ngừng đứng lên tranh đấu, cùng nhân dân cả nước lật đổ chế độ phong kiến mấy mươi thế kỷ và chế độ thực dân hơn 80 năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và tiến hành cuộc kháng chiến thần thánh, đánh bại cuộc xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.

Sau kháng chiến chống Pháp, miền Bắc nói chung, xã Thanh Hương nói riêng phải đương đầu với biết bao khó khăn, thử thách. Hậu quả của cuộc chiến tranh để lại khá nặng nề, thiên tai liên tiếp hoành hành đe dọa, các thế lực thù địch lại tìm cách chống phá ta về nhiều mặt, tư liệu sản xuất chủ yếu còn nằm trong tay giai cấp địa chủ phong kiến… Phát huy truyền thống quê hương, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân xã Thanh Hương đã kiên cường, dũng cảm vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tập trung khắc phục hậu quả nặng nề do trận mưa lụt 1954 gây ra bằng việc khai hoang phục hoá, đẩy mạnh sản xuất rau màu ngắn ngày, phát huy tinh thần tương thân tương ái, giúp nhau vượt qua nạn đói, ổn định cuộc sống. Tiếp đó, toàn dân lại thực hiện thắng lợi chủ trương cải cách ruộng đất, hoàn thành mục tiêu “Người cày có ruộng”, đưa ruộng đất, trâu bò và mọi tư liệu sản xuất từ tay địa chủ phong kiến về tay người nông dân, đem đến cho người nông dân địa vị làm chủ ruộng đồng, làm chủ cuộc sống.

Để góp phần cải tạo quan hệ sản xuất, từ đó nâng cao đời sống nhân dân và tăng cường tiềm lực phục vụ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta chủ trương xây dựng “3 ngọn cờ hồng” ở miền Bắc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, xã Thanh Hương đã tích cực, hăng hái xây dựng các hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng và vận động nhân dân vào hợp tác xã, tham gia mua cổ phần với tỷ lệ cao. Các hợp tác xã đã phát huy vai trò của mình trong việc quản lý, động viên xã viên lao động sản xuất, giúp đỡ nhau làm ăn, phát triển kinh tế. Cơ sở vật chất của các hợp tác xã ngày càng được xây dựng, củng cố; đời sống của nhân dân ngày một nâng lên.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960) đã đề ra đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và thông qua Kế hoạch Nhà nước 05 năm lần thứ nhất. Thực hiện đường lối của Đảng, Đảng bộ và Nhân dân Thanh Hương tiếp tục củng cố quan hệ sản xuất, các hợp tác xã nông nghiệp từ quy mô nhỏ được sáp nhập thành hợp tác xã có quy mô lớn hơn. Các hợp tác xã đã tổ chức khai hoang, phục hoá, mở rộng thêm diện tích đất sản xuất; củng cố, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật; tu sửa, nâng cấp hệ thống đường giao thông, cầu cống phục vụ cho sản xuất và đời sống; phát động các chiến dịch làm phân bón, làm thuỷ lợi, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng… Nhờ vậy, sản xuất ngày càng phát triển, đời sống nhân dân được nâng lên, nhiệm vụ chi viện tiền tuyến luôn được hoàn thành tốt. Thực hiện chủ trương của cấp trên vùng đất Thanh Hương đã tiếp nhận nhiều hộ dân của các xã ven sông Lam như: Thanh Luân, Thanh Lĩnh, Thanh Tường, Thanh Văn lên xây dựng Nông Trang, khai hoang trồng màu, phát triển chăn nuôi mở rộng diện tích bước đầu giành được nhiều thắng lợi.

Thực hiện mưu đồ mở rộng chiến tranh, hòng ngăn chặn mọi sự chi viện đối với miền Nam, từ năm 1965 đế quốc Mỹ chính thức mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, Đảng bộ và Nhân dân xã Thanh Hương lại bước vào một thời kỳ mới: vừa sản xuất vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, vừa chi viện cho tiền tuyến miền Nam, góp phần đấu tranh thống nhất nước nhà. Trước những nhiệm vụ nặng nề đó, dưới sự lãnh đạo của tổ chức đảng, sự vào cuộc của chính quyền, Mặt trận, các đoàn thể và các hợp tác xã, xã Thanh Hương đã hoàn thành xuất sắc các mục tiêu đã đề ra. Trong 02 cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Thanh Hương luôn luôn làm tốt công tác phòng tránh, đánh địch. Nhà dân nào cũng có hầm trú ẩn, trường học được sơ tán và hạ xuống lòng đất, dân quân thường xuyên luyện tập, canh phòng cẩn mật. Thành lập các trung đội trực chiến tham gia bắn máy bay, làm kho, vận chuyển sơ tán lương thực, vũ khí và khắc phục hậu quả do Mỹ ném bom… góp phần cùng quân dân miền Bắc đánh bại 2 cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải ký với ta Hiệp định Pa-ri về Việt Nam và cay đắng, nhục nhã rút quân về nước.

Bên cạnh nhiệm vụ chiến đấu, nhiệm vụ sản xuất cũng được Thanh Hương hoàn thành tốt. Trong chiến tranh, các hoạt động sản xuất vẫn diễn ra khẩn trương, sôi nổi. Công tác khai hoang, phục hoá, cải tạo đồng ruộng, làm thuỷ lợi, phân bón, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất vẫn được quan tâm. Hợp tác xã nông nghiệp tiếp tục được củng cố, nâng quy mô từ hợp tác xã quy mô nhỏ thành hợp tác xã quy mô lớn. Năng suất, sản lượng nông nghiệp được giữ vững, đời sống Nhân dân được đảm bảo.

Cùng với nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu, nhiệm vụ chi viện tiền tuyến mỗi năm, hàng chục con em Thanh Hương lên đường tham gia bộ đội, đi thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến, chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên các chiến trường. Thanh Hương cũng đã đóng góp hàng trăm tấn lương thực, thực phẩm cho Nhà nước, góp phần để bộ đội, dân công ăn no đánh thắng.

Qua 21 năm đấu tranh trường kỳ gian khổ, hy sinh nhưng vô cùng anh dũng, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam đã kết thúc thắng lợi. Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong thắng lợi vĩ đại của dân tộc, nhân dân Thanh Hương tự hào đã đóng góp một phần không nhỏ của mình vào sự nghiệp chung của dân tộc.

Sau đại thắng Mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất nhưng cả nước nói chung, xã Thanh Hương nói riêng lại phải đương đầu với những thử thách mới. Hậu qủa của cuộc chiến tranh rất nặng nề, thiên tai luôn đe doạ, tàn phá làm cho các công trình cầu cống, đường sá, cơ sở vật chất của tập thể, nhà cửa bị hư hỏng, xuống cấp. Tỉnh Nghệ Tĩnh, huyện Thanh Chương nói chung và xã Thanh Hương nói riêng rơi vào tình trạng thiếu lương thực trầm trọng làm ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống. Trước tình hình đó, nêu cao truyền thống quê hương xô viết, thực hiện chủ trương của cấp trên, Đảng bộ và Nhân dân xã Thanh Hương đã phát động và thực hiện liên tục phong trào toàn dân hướng vào mặt trận sản xuất nông nghiệp, nhằm vào các khâu quan trọng là thuỷ lợi, phân bón, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, khai hoang phục hoá, mở rộng diện tích, sản xuất hè thu, rau màu và chăn nuôi để giải quyết tốt vấn đề lương thực, thực phẩm. Riêng về công tác thuỷ lợi và khai hoang, Thanh Hương đã ra quân tu sửa hệ thống kênh mương trong toàn xã. Về phân bón, Thanh Hương phát động một phong trào làm phân xanh, phân chuồng, nuôi bèo hoa dâu sôi nổi, đem lại nguồn phân bón dồi dào, góp phần tăng năng suất cây trồng. Xã Thanh Hương là một trong những điển hình của huyện Thanh Chương về công tác khai hoang.

Mặc dù đất nước đã thống nhất nhưng các thế lực phản động quốc tế vẫn không từ bỏ âm mưu chống phá nước ta. Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân xã Thanh Hương đã tích cực, hăng hái động viên con em lên đường tòng quân nhập ngũ, đóng góp nhiều sức người, sức của cho chiến trường, góp phần đánh thắng bọn phản động xâm lược ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc thân yêu.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, tháng 12/1986, đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Thực hiện đường lối của Đảng, xã Thanh Hương tích cực bắt tay xây dựng quê hương trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bước đầu đổi mới, cũng như những nơi khác, địa phương còn gặp nhiều khó khăn như anh hưởng của cơ chế tập trung hành chính bao cấp, những tư tưởng, tập quán làm ăn cũ còn khá nặng nề nhưng Đảng bộ và Nhân dân Thanh Hương đã trăn trở, đấu tranh để tìm ra cung cách quản lý, cung cách làm ăn mới và đã thu được những kết quả bước đầu hết sức quan trọng làm tiền đề cho chặng đường tiếp theo.

Từ năm 1991, thực hiện “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” do Đại hội VII của Đảng đề ra, tình hình cả nước nói chung và Thanh Hương nói riêng đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Đặc biệt là việc thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới đã giúp kinh tế - xã hội địa phương phát triển toàn diện. Cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý, năng suất, sản lượng cây trồng trong nông nghiệp tăng vượt bậc, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại được mở mang và ngày càng phát triển mạnh mẽ, đưa lại nguồn thu nhập đáng kể. Tổng sản lượng lương thực toàn xã mỗi năm đạt hàng ngàn tấn, bình quân nhân khẩu tăng gần gấp đôi so với trước đổi mới. Chăn nuôi phát triển mạnh, đàn lợn, trâu bò, gia cầm tăng mạnh. Cơ sở vật chất hạ tầng kỹ thuật của xã được xây dựng ngày càng khang trang. Hệ thống mương máng được tu sửa, nạo vét, hàng chục km được bê tông hoá phục vụ tích cực cho sản xuất. Hệ thống giao thông nội xã được nâng cấp, mở rộng, nhựa hóa, bê tông hoá với tổng chiều dài hàng chục km. Nhà bia tưởng niệm được xây dựng để tưởng nhớ các liệt sỹ đã hy sinh, thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của Đảng bộ và Nhân dân xã Thanh Hương. Cơ sở vật chất, trụ sở làm việc của Đảng uỷ, chính quyền, đoàn thể từng bước được nâng cấp, tu bổ. Đời sống của nhân dân được nâng lên rõ rệt: nhà cửa được ngói hoá, xây dựng kiên cố; phương tiện đi lại, thông tin nghe nhìn ngày càng hiện đại và đạt tỷ lệ cao. Cùng với kinh tế, lĩnh vực văn hoá - xã hội được chăm lo và ngày càng phát triển. Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao thường xuyên được tổ chức sôi nổi và có chất lượng, góp phần nâng cao đời sống tinh thần của người dân.

Nhìn lại chặng đường hơn 90 năm phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Thanh Hương đã liên tục giành nhiều thắng lợi trên tất cả các lĩnh vực. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước luôn được thực hiện tốt. Quan hệ sản xuất từng bước cải tiến. Kinh tế ngày càng tăng trưởng mạnh. Các lĩnh vực văn hoá - xã hội được chăm lo, phát triển. Công tác an ninh quốc phòng luôn được đảm bảo, giữ vững. Công tác xây dựng đảng và hệ thống chính trị thường xuyên được coi trọng và làm tốt vai trò hạt nhân lãnh đạo và tập hợp sức mạnh của quần chúng nhân dân trong thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu xây dựng quê hương phát triển. Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận và các tổ chức, đoàn thể được xây dựng ngày càng vững mạnh.

Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, bảo vệ và xây dựng quê hương dưới sự lãnh đạo của Đảng trong những năm qua, Đảng bộ và Nhân dân xã Thanh Hương rút ra một số bài học kinh nghiệm chủ yếu sau đây:

1. Tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn

Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng, Nhân dân cả nước nói chung, Thanh Hương nói riêng đã đoàn kết xung quanh Đảng đấu tranh giành nhiều thắng lợi to lớn. Có nhiều giai đoạn, tình hình quê hương hết sức khó khăn, đen tối, đầy gian nan, thử thách, mất mát hy sinh… nhưng trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cán bộ, đảng viên và Nhân dân xã nhà vẫn một lòng một dạ trung thành với Đảng, tin tưởng tuyệt đối vào mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta là Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội, quyết tâm phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách, xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phát triển.

2. Luôn luôn giữ gìn và phát huy truyền thống quê hương, coi đó là những giá trị quý báu, là động lực to lớn để giúp xã Thanh Hương vươn lên giành thắng lợi trong mọi giai đoạn cách mạng

Từ xưa đến nay, con người xã Thanh Hương luôn mang đầy đủ những phẩm chất quý giá của con người xứ Nghệ, con người Việt Nam đó là: yêu nước, yêu quê hương tha thiết, có ý chí tự lực tự cường, tinh thần đoàn kết gắn bó, ý thức cộng đồng, gắn kết cá nhân, gia đình, làng xã và Tổ quốc. Trong lao động sản xuất, phát triển kinh tế thì cần cù, chăm chỉ, chịu thương chịu khó nhưng cũng đầy sức sáng tạo. Trong chiến đấu thì gan dạ, mưu trí, dũng cảm, kiên cường, làm cho kẻ thù bao phen khiếp sợ. Trong cuộc sống đời thường, trong đối nhân xử thế thì chất phác, bộc trực, thẳng thắn nhưng lại hết sức nhân ái, thuỷ chung, khoan dung, độ lượng, trọng nghĩa tình, đạo lý. Bên cạnh đó, con người Thanh Hương cũng rất ham học, hiếu học, coi trọng việc thi cử. Ở một mảnh đất xa trung tâm, còn nhiều khó khăn nhưng các thế hệ con người Thanh Hương luôn luôn biết nỗ lực phấn đấu vươn lên để học giỏi, mang tri thức, trí tuệ để xây dựng cuộc sống, xây dựng quê hương. Những phẩm chất đó luôn luôn là yếu tố quan trọng cần được phát huy để đưa Thanh Hương đến tiến bộ, giàu đẹp, văn minh.

3. Không ngừng đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng bộ ngày càng vững mạnh để lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ, mục tiêu đề ra

Thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam nói chung, lịch sử hơn 90 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của tổ chức Đảng ở Thanh Hương nói riêng đã chứng minh vai trò to lớn của Đảng. Ở một địa phương, Đảng bộ là tổ chức lãnh đạo cao nhất, là một yếu tố quyết định sự phát triển về mọi mặt của địa phương. Điều quan trọng hàng đầu là phải thường xuyên xây dựng khối đại đoàn kết cao trong toàn Đảng bộ. Trước hết là tập thể Đảng ủy và các cấp ủy chi bộ. Phát huy tính tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên. Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng đi đôi với việc nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu, từng cá nhân trên từng cương vị, chức trách được giao. Có quyết tâm cao, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Coi trọng công tác kiểm tra, sơ tổng kết, khắc phục kịp thời những yếu kém, khuyết điểm, không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, chủ động, nhạy bén, linh hoạt trên cơ sở thực hiện đúng nguyên tắc để nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng bộ và các chi bộ, góp phần thúc đẩy phong trào của địa phương ngày càng đi lên.

4. Không ngừng xây dựng, củng cố hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân

Từ quan điểm lý luận và thực tiễn đã chứng minh “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” và từ sự nghiệp dựng nước, bảo vệ Tổ quốc của đất nước ta đã được tổng kết: “Đẩy thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân” và “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công”. Muốn các chủ trương, nghị quyết của Đảng bộ đi đến thành công thì cần phát huy được nguồn sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội. Vì vậy phải xây dựng hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh. Các tổ chức, đoàn thể trong hệ thống chính trị cần phát huy cao độ vai trò của mình trong việc tập hợp lực lượng, tuyên truyền vận động quần chúng Nhân dân thực hiện tốt mọi chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các mục tiêu, chỉ tiêu, nghị quyết của địa phương với phương châm: các tổ chức, từng đảng viên và toàn thể mọi người dân trở thành chủ thể để xây dựng quê hương. Phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức, đoàn thể xung quanh Mặt trận Tổ quốc để tạo ra sức mạnh to lớn thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ đề ra. Đồng thời Mặt trận Tổ quốc làm tốt vai trò phản biện góp ý với Đảng bộ trong việc hoạch định các chủ trương trong thực hiện nhiệm vụ của địa phương. Phải luôn luôn tôn trọng và phát huy quyền làm chủ, quyền tự do tín ngưỡng của Nhân dân theo quy định của pháp luật, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tạo sức mạnh tổng hợp để xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.

5. Thường xuyên bám sát, nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, vận dụng linh hoạt, phù hợp vào thực tiễn của địa phương

Thực tế cho thấy, muốn thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phải nắm vững và thực hiện đúng những vấn đề có tính nguyên tắc nhưng phải vận dụng sát đúng vào tình hình cụ thể của địa phương, không rập khuôn, máy móc, cứng nhắc; phải bám sát đường lối, chủ trương của cấp trên nhưng vận dụng linh hoạt, căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương trong mỗi giai đoạn , mỗi thời điểm để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện và nâng cao hiệu quả trong từng nhiệm vụ, công việc đã được xác định.

6. Quán triệt phương châm “Dựa vào sức mình là chính” nhưng cần tích cực tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, sự hỗ trợ của cấp trên để tạo ra sự phát triển nhanh và bền vững cho quê hương

Ở một địa phương miền núi, tương đối xa trung tâm, còn nhiều khó khăn, muốn nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên giàu mạnh không có cách nào khác là phải phát huy cao độ nội lực, tinh thần tự lực cánh sinh, phát huy truyền thống cần cù, chịu khó, kiên trì, nhẫn nại, khắc phục khó khăn, vượt qua thử thách để xây dựng quê hương. Bên cạnh đó, cần năng động, sáng tạo, nhạy bén với tình hình, nhạy bén với cái mới, biết tranh thủ thời cơ thuận lợi thu hút nguồn lực từ bên ngoài, sự đóng góp vật chất, trí tuệ của con em Thanh Hương ở mọi miền Tổ quốc, sự hỗ trợ, gúp đỡ của các ngành, các cấp để tạo ra sự phát triển nhanh hơn, mạnh hơn, toàn diện hơn cho quê hương trên mọi lĩnh vực.

Những kinh nghiệm đó được rút ra từ thực tế lịch sử mang giá trị to lớn. Đó là chiếc “chìa khoá” để Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân xã Thanh Hương vận dụng, phát huy và giải quyết các vấn đề cụ thể đang đặt ra trên con đường đổi mới toàn diện quê hương, đất nước. Tự hào với quá khứ vẻ vang, Đảng bộ và Nhân dân xã Thanh Hương đang nỗ lực tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức viết tiếp những trang sử vẻ vang trên quê hương, cùng cả nước vững bước đi lên trong thời kỳ mới./.

 

 

BẢN ĐỒ XÃ NGHĨA PHÚC - HUYỆN TÂN KỲ
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Đăng nhập

CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ XÃ THANH HƯƠNG
Chịu trách nhiệm nội dung: Ông Nguyễn Văn Tiến - Chủ tịch UBND Xã

 Trụ sở: Xóm 2 - Xã Thanh Hương - Huyện Thanh Chương - Tỉnh Nghệ An

Điện thoại: 0971.749.738 - Email: ubndthanhhuongna@gmail.com